Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Đổi mới thể chế để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực (11/9)

11/09/2015 - 21 Lượt xem

Nguồn lao động đồi dào nhưng thiếu chuyên môn

Tại Hội thảo khoa học về cải cách thể chế kinh tế Việt Nam để hội nhập và phát triển giai đoạn 2015 – 2035 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức tại Hà Nội ngày 28/8, vấn đề nguồn nhân lực được nhiều chuyên gia quan tâm và đưa ra thảo luận.

Theo nhận định của Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia, phát triển nguồn nhân lực là vấn đề thiết yếu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân lực được xác định là một trong ba trụ cột chính vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, giáo dục và đào tạo là vấn đề đặc biệt quan trọng, là quốc sách hàng đầu và động lực phát triển kinh tế - xã hội.

Trong nhiều năm qua, việc phát triển đào tạo chuyên môn kỹ thuật ở Việt Nam đã có những bước cải thiện, tuy nhiên sự mất cân đối trong cung cầu giáo dục đào tạo hiện vẫn đang là một trong những vấn đề lớn của hệ thống giáo dục Việt Nam. Nước ta đang và sẽ còn nhu cầu về lao động có trình độ tay nghề cao, nhưng rõ ràng lượng cung hiện tại chưa đáp ứng được nhu cầu đó.

Báo cáo của nhóm nghiên cứu Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia chỉ rõ Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào. Dân số trung bình năm 2014 của Việt Nam ước tính đạt 90,7 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2014 là 53,7 triệu người, trong đó gần 0,7 triệu người vẫn đang theo học một trường/khóa đào tạo bất kỳ để nâng cao trình độ. So với các nước trong khu vực, qui mô lực lượng lao động nước ta khá dồi dào, tuy thấp hơn lực lượng lao động của In-đô-nê-xi-a, nhưng gấp 4 lần lực lượng lao động của Ma-lai-xi-a; gấp hơn 2 lần của Hàn Quốc và gấp 1,3 lần Phi-li-pin và Thái Lan.

Tuy nhiên, trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động còn thấp; còn có sự bất bình đẳng về giới ở hầu hết các trình độ đào tạo bậc cao; lực lượng lao động trẻ (20-34 tuổi) có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn nhóm lực lượng lao động lớn tuổi. Cụ thể, trình độ học vấn của nguồn nhân lực nước ta mới chỉ đạt ở mức phổ thông và vẫn còn sự bất bình đẳng về giới trong giáo dục phổ thông đối với nguồn nhân lực. Năm 2014, trong số hơn 53,7 triệu người thuộc lực lượng lao động có 68,7% mới đạt đến trình độ trung học cơ sở. Trình độ “chưa bao giờ đi học” chiếm 3,7% và “chưa tốt nghiệp tiểu học” chiếm 11,2% tổng nguồn nhân lực. Ở các trình độ học vấn thấp (từ chưa bao giờ đi học cho đến tốt nghiệp tiểu học) thì nữ chiếm số đông hơn nam, tuy nhiên càng ở các trình độ cao thì nam lại chiếm số đông hơn nữ. Năm 2014, trong số hơn 53,7 triệu người thuộc lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chỉ có gần 10 triệu người đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, chiếm 18,6%. Cả nước hiện có gần 43,6 triệu người chưa được đào tạo để đạt trình độ chuyên môn kỹ thuật nào đó. Tỷ lệ nguồn nhân lực đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật của nam cao hơn nữ (20,8% so với 16,3%) và thành thị cao hơn nông thôn (34,7% so với 11,5%).  Trong cả nước, có khoảng 2,6 triệu người có trình độ dạy nghề (chiếm 4,9%) trong tổng nguồn nhân lực. Đây là một con số đáng báo động đối với lực lượng lao động của nước ta - lượng cung lao động rất dồi dào, nhưng lao động đã qua đào tạo nghề lại quá ít.

Đổi mới thể chế nhằm thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực

Cho đến nay, chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội đã được thể hiện rất rõ trong các văn bản và đã có rất nhiều kiến nghị về các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, nhưng trên thực tế chưa tạo ra sự chuyển biến căn bản về chất lượng cũng như cơ cấu đào tạo. Điều này có liên quan trực tiếp tới vấn đề thể chế trong cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo. Từ góc độ  thể chế, nhóm nghiên cứu Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia cho rằng một hệ thống các giải pháp cần phải được thực hiện và triển khai đồng bộ, trên cơ sở quan điểm đổi mới thể chế và mô hình tổ chức cung ứng dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả của kết nối cung cầu giáo dục – đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, trong đó tập trung vào các giải pháp sau đây:

Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội:

Cần có các cuộc đối thoại trực tiếp, thường kỳ giữa ba bên là đại diện từ các cơ sở cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo; sinh viên và người sử dụng lao động (doanh nghiệp) để đánh giá các bất cập tồn tại theo nhiều khía cạnh khác nhau. Việc tổ chức các cuộc đối thoại thường xuyên giúp tăng cường sự tham gia của người sử dụng lao động trong thiết kế và truyền tải các chương trình đào tạo. Sự tham gia của người sử dụng lao động trong thiết kế các chương trình đào tạo giúp cho các chương trình có tính thực tiễn cao hơn, sinh viên được trang bị những kiến thức và kỹ năng thực sự cần thiết trong thực tế và do đó, giúp tăng năng suất lao động nói chung của nền kinh tế.

Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và xây dựng hệ thống đánh giá sinh viên mới có tính thực tiễn cao hơn. Tùy vào từng ngành nghề và lĩnh vực cụ thể, cần đưa ra những mô hình, cách thức để đánh giá sinh viên dựa trên các kỹ năng cần thiết cho công việc trong tương lai thay vì những lý thuyết sinh viên được dạy. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên, giảng viên cũng cần liên tục cập nhật những biến đổi của thị trường lao động để đưa ra phương pháp giảng dạy phù hợp, khuyến khích sinh viên trau dồi các kỹ năng mềm.


Tăng cường tự chủ trong các cơ sở cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo:

Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về vấn đề tự chủ của các cơ sở giáo dục đào tạo, theo đó cần quy định giao quyền tự chủ toàn diện cho các cơ sở giáo dục theo ba khía cạnh lớn: tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tự chủ về tổ chức biên chế và tự chủ về tài chính. Hiệu quả của cơ chế giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đào tạo đối với yêu cầu đào tạo theo nhu cầu xã hội thể hiện ở các mặt:

Tự chủ về chương trình giảng dạy: Các trường cần được chủ động trong thiết kế chương trình giảng dạy để phù hợp với năng lực cũng như phương thức quản lý các trường. Đồng thời, cần được tự chủ trong việc hợp tác với các cơ sở sử dụng lao động để có các chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội.

Tự chủ về tuyển sinh: Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo dựa trên một số chỉ tiêu về năng lực của cơ sở giáo dục (cơ sở vật chất, số lượng giảng viên cơ hữu …) để phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh cho các trường. Như vậy, kế hoạch tuyển sinh chưa được xây dựng trên nhu cầu thực tế của xã hội . Do vậy, dẫn đến tình trạng lãng phí và mất cân đối trong đào tạo, gây lãng phí nguồn lực xã hội.   

Để hạn chế việc mất cân bằng cung cầu lao động, các cơ sở giáo dục bậc đại học cần được căn cứ vào tính đặc thù, năng lực của mình và nhu cầu việc làm của xã hội theo từng lĩnh vực để tự quyền quyết định số lượng tuyển sinh cũng như chuyên ngành đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của từng ngành nói riêng và của quốc gia nói chung.

Tự chủ về nhân sự: Các trường cần được tự chủ hoàn toàn về mặt tuyển dụng, bổ nhiệm và sử dụng giảng viên theo đúng nhu cầu. Điều này sẽ khuyến khích việc sử dụng và thu hút được lao động có chất lượng trong ngành giáo dục và đào tạo. Ngoài ra,  Nhà nước cũng nên yêu cầu các trường có quỹ riêng để phát triển lực lượng giảng viên của đơn vị mình để nâng cao chất lượng, nhất là khi Nhà nước giao quyền tự chủ tài chính cho các trường. Điều này, sẽ khuyến khích các cán bộ, giảng viên có động lực tham gia nghiên cứu, nâng cao trình độ của bản thân.

Tự chủ tài chính: sẽ tạo điều kiện cho các trường sử dụng hiệu quả hơn nguồn ngân sách cũng như các nguồn tài trợ thông qua nhiều kênh khác để nâng cao chất lượng đào tạo và kết nối tốt hơn với các đơn vị sử dụng lao động.

Xây dựng hệ thống thông tin dự báo cung cầu nhân lực quốc gia.

Hệ thống này được xây dựng nhằm cập nhật thường xuyên trên quy mô toàn quốc về nguồn cung lao động cũng như về phía cầu, đưa ra dự báo cụ thể những yêu cầu nhân lực theo ngành, theo nghề và theo trình độ, kỹ năng. Đây là hệ thống thu thập thông tin từ ba bên gồm người học, cơ sở giáo dục và người sử dụng lao động. Đầu ra của hệ thống sẽ là những phân tích và thống kê khoa học cho thấy phần thiếu cũng như thừa của nguồn cung để cung-cầu lao động được khớp với nhau. Hệ thống này sẽ là cơ sở để hỗ trợ học sinh, sinh viên và gia đình trong việc lựa chọn ngành dựa vào nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Các cơ sở giáo dục cũng có thể dựa vào các thông tin từ hệ thống nhằm điều chỉnh hoạt động của mình cho đáp ứng nhu cầu về trình độ và kỹ năng của người sử dụng lao động. Đồng thời, hệ thống cũng giúp cung cấp những thông tin về người lao động cho doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động nhằm thúc đẩy cầu (người sử dụng lao động) gặp cung (người lao động).


Khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực.

Xây dựng mô hình đào tạo nhà trường trong doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng theo đúng nhu cầu xã hội. Mô hình này giúp nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân và thúc đẩy sự kết nối cung – cầu lao động đáp ứng nhu cầu của xã hội

Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện đổi mới các phương thức đầu tư cho giáo dục và đào tạo như các dự án đào tạo theo phương thức đối tác công tư, các cơ sở cung ứng dịch vụ sự nghiệp công hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận. Các ưu đãi này có thể ở các hình thức như miễn giảm thuế , tiền thuê đất, miễn giảm các loại phí hành chính....

Xây dựng cơ chế hợp lý thu thập phản hồi từ người sử dụng dịch vụ giáo dục: Tùy thuộc điều kiện khách quan mà các trường có thể tiến hành thu thập công khai ý kiến phản hồi của học sinh, sinh viên, phụ huynh về chất lượng của giáo trình, chất lượng của giảng viên, thời lượng tiết học của từng môn,... để kịp thời có những điều chỉnh sao cho phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về giáo dục và đào tạo, đồng thời có sự gắn kết chặt chẽ giữa các đơn vị sử dụng lao động và cơ sở cung ứng dịch vụ.

Nguồn: http://www.ncseif.gov.vn