
Tin tức
ODA và hai xu hướng trái chiều (25/02)
25/02/2016 - 25 Lượt xem
Nhu cầu cao
Đề án trên là một phần trong kế hoạch huy động các nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2016-2020. Theo đó, nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5-7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế cần khoảng 480 tỷ USD. Trong đó vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương vào khoảng 180 tỷ USD. Nguồn vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi sẽ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực giao thông vận tải, phát triển đô thị, nông nghiệp và phát triển nông thôn, môi trường, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ.
Nếu nhìn vào những kết quả tích cực mà nguồn vốn ODA cũng như vốn vay ưu đãi mang lại trong suốt những năm qua, có thể thấy rõ tầm quan trọng của Đề án này trong bối cảnh ngân sách vẫn còn eo hẹp và nguồn lực đầu tư từ tư nhân vẫn còn hạn chế. Trong giai đoạn 2011-2015, mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng gần 3% so với GDP, nhưng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài trong giai đoạn 2011-2015 đã hỗ trợ Việt Nam phát triển hạ tầng kinh tế xã hội và giảm nghèo một cách bền vững. Nhiều công trình dự án trọng điểm quốc gia sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi như cao tốc Nội Bài – Lào Cai, cao tốc TP HCM – Long Thành – Dầu Giây, cầu Vĩnh Thịnh, cầu Nhật Tân, đường nối Nhật Tân – Nội Bài, nhà ga T2 Nội Bài và nhiều công trình khác đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng góp phần hoàn thiện, hiện đại hóa hạ tầng kinh tế xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Ký kết giảm
Có một thách thức không nhỏ với mục tiêu trên, đó là Việt Nam sẽ thu hút gần 40 tỷ USD vốn ODA và vốn vay ưu đãi ở đâu để có thể đáp ứng đủ nhu cầu.
Ngay trong chính đề án mới ban hành của Chính phủ cũng đã chỉ ra rằng tình hình ký kết vốn ODA và vốn vay ưu đãi đang có chiều hướng giảm dần. Sau khi trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2010, Việt Nam đã chứng kiến sự suy giảm vốn ODA qua các năm 2011-2015. Tổng vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi đạt mức cao nhất là hơn 6,9 tỷ USD vào năm 2011 sau đó giảm dần và đến năm 2015 xuống chỉ còn hơn 2,7 tỷ USD.
Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân như một số dự án, đặc biệt các nhà tài trợ vốn ODA giảm dần hoặc có kế hoạch chấm dứt chương trình viện trợ chính thức dành cho Việt Nam, trong khi một số nhà tài trợ khác chuyển dần từ cung cấp vốn vay ODA ưu đãi sang các khoản vay có điều kiện kém ưu đãi hơn.
“Với những bước đi cụ thể, các nhà tài trợ tiếp tục có những điều chỉnh chính sách hợp tác phát triển với Việt Nam chuyển dần từ cung cấp ODA sang các khoản vay kém ưu đãi hơn, tập trung vào thương mại, hợp tác đầu tư và chấm dứt các chương trình hỗ trợ phát triển cho Việt Nam” – Chính phủ nhận xét trong Đề án.
Đối với các định chế tài chính quốc tế, trước mắt là Ngân hàng Thế giới (WB) vào năm 2017 sẽ dừng cung cấp vốn ODA với điều kiện vay ưu đãi (IDA) và thay vào đó là vốn vay với các điều kiện kém ưu đãi hơn (IBRD). Tiếp theo đó, Ngân hàng Phát triển Châu Á cũng sẽ ngừng cung cấp vốn vay ưu đãi và chuyển sang vốn vay kém ưu đãi hơn trong một hoặc hai năm sau WB.
Tình hình đó sẽ dẫn tới vốn vay tăng giá, đòi hỏi các cơ quan Việt Nam cần phải tính toán, cân nhắc toàn diện trước khi sử dụng vốn của các ngân hàng phát triển nhằm đạt hiệu quả đầu tư và đảm bảo an toàn nợ công. Và cũng chính vì áp lực nợ công cao, các cơ quan Việt Nam cũng đã thận trọng hơn khi lựa chọn các dự án sử dụng vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi theo hướng đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và khả năng trả nợ. Hơn nữa, trong hội nghị đối tác phát triển tổ chức tại Hà Nội hồi đầu tháng 12 vừa qua, các nhà tài trợ cũng đã cho rằng thể chế quản lý và sử dụng vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi chưa theo kịp những thay đổi trong chính sách của các nhà tài trợ khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình, dẫn đến việc huy động vốn bị giảm.
Cho dù các nhà tài trợ vẫn cam kết ủng hộ và hợp tác với Việt Nam, nhưng ngay cả Chính phủ trong Đề án mới ban hành cũng chỉ dự báo tổng giá trị ODA và vốn vay ưu đãi ký kết được trong giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt từ 20-25 tỷ USD, thấp hơn khá nhiều so với nhu cầu thực tế cần huy động.
Nhiệm vụ trọng tâm
Chưa biết khả năng huy động vốn ODA trong 5 năm tới sẽ ra sao, nhưng trước mắt Việt Nam đang có sẵn lượng vốn đã ký kết khá lớn vẫn chưa được sử dụng. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số vốn ODA được huy động từ các năm trước vẫn chưa được giải ngân vào khoảng 22 tỷ USD, trong đó phần lớn là những dự án đầu tư của nhóm 6 ngân hàng phát triển với các khoản vay ưu đãi. Do vậy, Chính phủ cũng xác định nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn này là hoàn thành thực hiện cam kết giải ngân các chương trình dự án theo đúng tiến độ.
Căn cứ vào tiến độ thực hiện của các chương trình, dự án đã ký kết, tổng vốn ODA giải ngân được Chính phủ dự tính trong giai đoạn 2016-2020 sẽ đạt từ 25 tỷ USD đến 30 tỷ USD. Trung bình, mỗi năm sẽ phải giải ngân được từ 5-6 tỷ USD.
Theo Đề án của Chính phủ, nhiệm vụ giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 2016-2020 có tính khả thi cao vì hầu hết đều là các chương trình, dự án chuyển tiếp từ thời kỳ 2011-2015 và được sắp xếp theo kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 với các điều kiện đảm bảo vốn đối ứng để thực hiện chương trình dự án theo tiến độ của các điều ước quốc tế và thỏa thuận tài trợ đã ký kết.
Như vậy, chưa biết việc huy động vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong 5 năm tới sẽ ra sao, việc quan trọng trước mắt vẫn là phải sử dụng hết và hiệu quả 22 tỷ USD nguồn vốn đã có sẵn. Vì nếu không giải ngân hết thì sẽ là một sự lãng phí do nguồn vốn đó sẽ bị hủy khi thời hạn ký kết trong hiệp định hết hiệu lực. Đồng thời với đó sẽ là việc tìm ra các giải pháp để huy động và quản lý ODA nhằm tạo nguồn vốn gối đầu cho các năm tiếp theo.
Nguồn: DDDN
Nguồn vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi ở lĩnh vực giao thông vận tải nói riêng, các lĩnh vực khác nói chung khi nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2010, thì việc ký kết vốn ODA và vốn vay ưu đãi có chiều hướng giảm dần. Thực tế, hiện nay việc vay ưu đãi đối với dự án ODA chúng ta vẫn được hưởng theo một tỷ lệ thấp hơn so với trước đây nhưng Việt Nam vẫn được các nhà tài trợ cho vay ưu đãi, tuy nhiên số lượng đó không nhiều mà bản thân ngân hàng thế giới cũng đã khuyến cáo với chúng ta vấn đề này và chúng ta chấp nhận phương án vay thương mại. Nhưng vay thương mại lãi suất vẫn tương đối hấp dẫn so với vay thông thường hiện nay.
Riêng đối với ngành giao thông vận tải, bình quân hàng năm phải cần 3 – 4 tỷ USD Mỹ từ nguồn vốn ODA cho phát triển hạ tầng giao thông. Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ lập dự án để trình Chính phủ để vay thương mại trên cơ sở hợp lý để phù hợp với trần nợ công của Việt Nam, đồng thời sẽ kiên quyết xây dựng lộ trình đảm bảo tiến độ chất lượng và hiệu quả cũng như phải rà soát lựa chọn kỹ lưỡng những dự án rất có hiệu quả để có thể thu hồi vốn nhanh cũng như giảm áp lực cho ngân sách trả nợ đối với đầu tư công. Bên cạnh đó, chúng tôi quy định tiến độ rất cụ thể, chi tiết cho từng dự án.
Trong những năm qua Bộ GTVT, đặc biệt là Bộ trưởng Đinh La Thăng đã tạo ra được một phương thức làm việc với một tư duy khá đổi mới trong vấn đề triển khai các hoạt động của ngành giao thông vận tải trong đó có đầu tư cơ sở hạ tầng là nhiệm vụ hết sức trọng tâm. Minh chứng là các dự án ODA mà ngành giao thông đảm nhận không chậm tiến độ và đang có xu hướng rút ngắn tiến độ và được các nhà tài trợ hết sức yên tâm kể cả chất lượng cũng như các thủ tục triển khai các dự án.
Tôi có thể đơn cử như, dự án cầu yếu của Nhật Bản chúng tôi rút ngắn xuống còn hai năm hay là vốn của ADB phục vụ cho đầu tư các tuyến đường cao tốc chúng tôi đều rút ngắn từ 6 tháng đến 1 năm. Riêng các nguồn vốn World Bank chúng tôi đang rà soát lại để yêu cầu các ban quản lý dự án không được chậm tiến độ và cố gắng rút tiến độ từ 3 đến 6 tháng. Hiện nay bản thân tôi được Bộ trưởng giao phụ trách Bộ GTVT tôi đã cùng với các đồng chí Thứ trưởng khác sẽ quyết tâm giữ vững được nhịp độ phát triển của ngành giao thông vận tải và đồng thời tiếp tục đưa ra những sáng kiến mới để thu hút các ngồn vốn đầu tư trong đó có nguồn vốn ODA và nguồn vốn xã hội hoá. Với tinh thần đó, chúng tôi hy vọng thời gian tới bằng các nguồn vốn chúng ta có thể đáp ứng phát triển cơ sở hạ tầng cho việc phát triển kinh tế đất nước.
Tăng cường cho vay lại vốn ODA
Kể từ năm 2010 khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, mối quan hệ giữa Việt Nam và các nhà tài trợ đã thay đổi dần từ quan hệ viện trợ phát triển sang đối tác phát triển. Điều đó phản ánh sự công nhận của cộng đồng quốc tế đối với thành tựu sau gần 30 năm đổi mới phát triển kinh tế, nhưng cũng đòi hỏi Việt Nam phải có thay đổi căn bản từ nhận thức, tư duy, hoạch định chính sách đến phương thức hợp tác.
Trong thời gian tới, các đối tác phát triển sẽ hướng nhiều hơn vào việc đẩy mạnh quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam, trong khuôn khổ các thỏa thuận thương mại và đầu tư song phương và đa phương, thay vì cung cấp vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi như trước. Chính phủ các nước đối tác sẽ hỗ trợ gián tiếp quan hệ hợp tác giữa các chủ thể như trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức công và tư và các địa phương. Trong những năm tới, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước đối tác phát triển sẽ chỉ đóng vai trò gián tiếp tạo môi trường thuận lợi và cung cấp sự hỗ trợ nhất định để các bên quan hệ trực tiếp với nhau. Như vậy huy động vốn ODA sẽ không còn dễ như trước nữa. Để đảm bảo nguồn vốn được sử dụng một cách hiệu quả nhất, điều cần thiết là phải thay đổi nguyên tắc quản lý vốn. Cần tăng cường cho vay lại vốn ODA và giảm cấp phát từ ngân sách nhà nước. Đối với các dự án không thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước phải triệt để áp dụng cơ chế cho vay lại trên cơ sở chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và đơn vị sử dụng.
