
Tin tức
Để kinh tế tư nhân thành… động lực (29/02)
29/02/2016 - 24 Lượt xem
Xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế rõ ràng là bước tiến trong nhận thức, và phù hợp với đòi hỏi thực tiễn khi khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang dần co hẹp lại, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang lớn mạnh, và nền kinh tế phải đối diện cạnh tranh ngày càng gay gắt khi hội nhập toàn diện đang đến. Tuy nhiên, để biến điều này thành hiện thực là thách thức không nhỏ.
Thách thức hiện thực hóa, nhìn từ thực tế kinh tế tư nhân
Theo phân loại của Tổng cục Thống kê, các doanh nghiệp ở Việt Nam được phân chia theo năm loại hình sở hữu để thu thập thông tin, bao gồm: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể; kinh tế tư nhân; và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế ngoài nhà nước bao gồm kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân.
Theo Niên giám Thống kê, tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế ngoài nhà nước là 49,3% vào năm 2012, cao hơn rất nhiều so với 32,6% của khu vực DNNN và 18,1% của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, lâu nay khái niệm kinh tế ngoài nhà nước thường bị hiểu nhầm là kinh tế tư nhân, nên kinh tế tư nhân thường được cho là có đóng góp cao nhất trong GDP như con số trên.
Thực tế là đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân nhỏ hơn nhiều, và tăng không đáng kể trong suốt nhiều năm nay. Theo nghiên cứu của chuyên gia thống kê Bùi Trinh, tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế tư nhân là 11,1% năm 2012, chỉ tăng rất ít so với 10,9% năm 2011; 10,7% năm 2010; 10,5% năm 2009; 10,2% năm 2008; 9,9% năm 2007; 9% năm 2006 và 8,5% năm 2005. Những con số khô khan trên cho thấy một sự thật sống động rằng sau hàng thập kỷ bị vùi dập, khu vực kinh tế tư nhân với lịch sử phát triển chỉ gần 30 năm kể từ khi có Luật Công ty năm 1987, được tiếp sức sau Luật Doanh nghiệp năm 2000, vẫn còn rất nhỏ bé và yếu ớt đến ngày nay.
Bên cạnh đó, trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước, kinh tế cá thể đóng góp đáng kể nhất vào GDP, với 33,2% vào năm 2012. Điều này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam còn rất manh mún nhỏ lẻ. Thật đáng lo lắng là tỷ trọng này không những không giảm mà còn có xu hướng tăng lên, từ 32,1% năm 2005 lên 33,2% năm 2012, theo Niên giám Thống kê.
Bên cạnh đó, hàng loạt những số liệu của Tổng cục Thống kê đều cho thấy tình hình rất đáng lo ngại với khu vực doanh nghiệp tư nhân.
Xét theo tiêu chí lao động trong giai đoạn 2002-2013 thì tỷ lệ doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ tăng từ 90% lên 95,9%; tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ tăng từ 53,1% lên 70%. Cũng khoảng thời gian này, doanh nghiệp quy mô vừa và lớn luôn chiếm tỷ lệ nhỏ và có xu hướng giảm; năm 2013, chỉ có 1,9% doanh nghiệp vừa và 2,2% doanh nghiệp lớn.
Xét theo tiêu chí vốn không tính yếu tố trượt giá trong giai đoạn kể trên, tỷ lệ doanh nghiệp quy mô nhỏ giảm từ 89,7% xuống 77,2%; 67% doanh nghiệp nhỏ giữ nguyên quy mô vốn đến năm 2011, trong đó 55% doanh nghiệp có quy mô nhỏ suốt từ 2002-2011.
Đáng kể nhất là hiệu suất sinh lợi trên tài sản (ROA) của doanh nghiệp tư nhân giảm từ 6,6% xuống 3,2% trong giai đoạn 2002-2013.
Bức tranh trên cho thấy tình hình đáng lo ngại.
Nút thắt môi trường kinh doanh
Cuối
năm 2015, một cán bộ hải quan TPHCM bị bắt vì cáo buộc tiêu cực, lợi
dụng quyền hạn khi thi hành công vụ. Hàng chục phong bì chứa gần một tỉ
đồng mà cơ quan công an tìm thấy tại nhà người này được cho là do doanh
nghiệp “nộp” chỉ trong năm ngày, theo thông tin báo chí. Liệu doanh
nghiệp có thể hoạt động tốt trong môi trường như vậy?
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, trích báo cáo Doing Business của Ngân hàng Thế giới, cho biết phí và thuế chiếm tới 40,8% trong số tổng lợi nhuận doanh nghiệp phải chi trả. Trong bối cảnh thuế thu nhập doanh nghiệp chính thức chỉ có 20%, thì mức chi phí trên là quá lớn, và có thể phần nào đó được chi cho “bôi trơn” như với trường hợp vị cán bộ hải quan nêu trên.
Muốn khuyến khích người dân bỏ tiền ra làm ăn, theo Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc, Nhà nước phải đảm bảo môi trường kinh doanh không những thuận lợi, mà còn an toàn. Sự yếu kém của các thiết chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của doanh nghiệp trong kinh doanh đang là một trong những điểm quan ngại hàng đầu của doanh nghiệp hiện nay. Sự chậm trễ, oan sai trong xét xử; hình sự hóa các quan hệ kinh tế và hiệu lực thi hành các phán quyết của tòa án không nghiêm; hiện tượng không công nhận và tòa án hủy các phán quyết trọng tài khá tùy tiện… đang phát đi những tín hiệu không tốt về môi trường kinh doanh lành mạnh. Do vậy, song hành với cải cách hành chính, cải cách tư pháp cần phải là một trọng tâm cải thiện môi trường kinh doanh sắp tới.
Cùng với sự gia tăng chi phí nhân công, chi phí về vốn của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước cũng đang là vấn đề lớn. Doanh nghiệp Việt Nam đang dựa quá nhiều vào nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng và lãi suất thực của vốn vay quá cao trong tương quan so sánh với các nền kinh tế khác đang hạn chế năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong bối cảnh trái phiếu chính phủ phát hành ngày càng lớn về lượng, thì lãi suất vay khó mà giảm xuống, càng làm cho khu vực doanh nghiệp tư nhân không thoát khỏi rào cản này.
Những khó khăn trên là rất lớn cho khu vực doanh nghiệp tư nhân, đó là chưa nói đến nạn phân biệt đối xử, nạn tham nhũng, các rào cản thủ tục hành chính, và đặc biệt là phong trào “doanh nghiệp sân sau” đang bủa vây họ.
Bên cạnh đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước - khu vực đang đóng góp tới 32,6% GDP - cần phải được tiếp tục cải cách nhanh hơn; phải được đặt vào môi trường cạnh tranh bình đẳng, thay vì hưởng các ưu đãi hiện nay, thì mới tạo thêm không gian sinh tồn và phát triển cho khu vực doanh nghiệp tư nhân.
Nếu các rào cản chưa được dỡ bỏ, địa vị pháp lý còn chưa được củng cố, thì dù có xác định là “động lực” của nền kinh tế, khu vực doanh nghiệp tư nhân vẫn chỉ là bầu sữa bị khai thác.
Nguồn: TBKTSG
