
Hết vốn ODA, cơ chế cấp phát ngân sách sẽ thay đổi (23/3)
23/03/2016 - 22 Lượt xem
Khi hết vốn rẻ
Bộ Tài chính đã chính thức thông tin về những cải cách trong quản lý, sử dụng vốn tài trợ phát triển chính thức (ODA). Sở dĩ Bộ Tài chính phải công bố rộng rãi những cải cách trong điều kiện vay vốn này bởi từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Mức độ ưu đãi từ các khoản cho vay của các đối tác phát triển dành cho Việt Nam đang giảm đi rõ rệt.
Việt Nam sẽ không được vay theo điều kiện ODA mà chủ yếu chuyển sang sử dụng nguồn vay ưu đãi, vay theo điều kiện thị trường từ tháng 7-2017.
Mặt khác, Luật Ngân sách nhà nước (NSNN) 2015, có hiệu lực thi hành từ năm 2017, đã chính thức quy định ngân sách địa phương được phép bội chi, tức là xác lập quyền vay nợ và nghĩa vụ trả nợ của địa phương. Như vậy, những điều kiện vay vốn và tiếp nhận vốn đã có những thay đổi rất mạnh. Việc cải cách, quản lý và sử dụng vốn vay trong thời gian tới buộc phải thay đổi theo, thay cho hình thức cấp phát ngân sách như trước.
Giai đoạn trước năm 2010, thời hạn vay vốn ODA từ các nhà tài trợ lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)… thường kéo dài khoảng 30-40 năm với chi phí vay khoảng 0,7 đến 0,8%/năm, bao gồm thời gian ân hạn. Giai đoạn từ 2011-2015, thời hạn vay bình quân chỉ còn 10 đến 25 năm, tùy từng đối tác và từng loại vay, với chi phí vay khoảng 2%/năm trở lên. Nhiều nhà tài trợ đã chuyển từ nguồn vốn vay ODA sang nguồn vốn vay hỗn hợp. Trong khi đó các nguồn vốn ODA đang được giải ngân hiện nay có tới 92,2% là vốn ngân sách cấp phát ( 92,2% tính ra khoảng gần 14 tỉ đô la tính đến thời điểm này, theo Bộ Tài chính).
Việc thay đổi hình thức vay vốn, tách rõ quyền vay và nghĩa vụ trả nợ của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương là rất cấp thiết, để hạn chế tốc độ gia tăng chóng mặt của nợ công. Vì dự kiến đến năm 2020, dư nợ công không quá 65% GDP, trong đó dư nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
Trong khi đó, các chỉ tiêu về dư nợ hiện đã chạm trần, và nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ trong vài năm tới (bao gồm cả gốc lẫn lãi) có thể vượt ngưỡng cho phép. Nếu không điều chỉnh cách thức quản lý và sử dụng vốn vay ODA, ngân sách sẽ không chịu nổi.
Đến hiệu quả đồng vốn
Để tách rõ quyền vay và nghĩa vụ trả nợ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, Bộ Tài chính phân định, tới đây Nhà nước chỉ tập trung vốn ODA vào những dự án then chốt, các dự án công trình trọng điểm. Các địa phương có tiềm lực tài chính tốt, có khả năng vay và trả nợ thì sẽ được vay tỉ lệ nhiều hơn so với các địa phương nhận trợ cấp từ trung ương.
Cụ thể, tỉ lệ cho vay lại vốn ODA dự kiến chia làm 5 nhóm. Ba nhóm thuộc các tỉnh nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương (tùy theo mức độ trợ cấp) và 2 nhóm đối với các tỉnh có điều tiết về ngân sách trung ương.
Theo Bộ Tài chính, 50/63 tỉnh thành có khó khăn vẫn được nhà nước hỗ trợ 70% đến 90% vốn đầu tư, và các tỉnh còn lại phải tự vay và tự cân đối trả nợ, trong đó TPHCM và Hà Nội phải vay lại 80%. Hơn 10 tỉnh được vay theo cơ chế 50%-50% (cho vay một nửa và Nhà nước hỗ trợ một nửa).
Ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), đơn vị chủ trì soạn thảo các cơ chế cho vay mới, cho rằng việc phân định và tăng cường trách nhiệm sẽ làm tăng hiệu quả các khoản vay chứ không làm giảm quy mô nợ công.
Mặt khác, lãi suất cho vay lại thời kỳ mới cũng căn cứ vào lĩnh vực và mức độ rủi ro của các dự án. Nếu các dự án thuộc danh mục, ngành hưởng mức lãi suất ưu đãi (khi vay lại nguồn vốn vay ODA của Chính phủ) thì tỉ lệ chịu rủi ro tín dụng của cơ quan cho vay lại (ngân hàng) tối đa 30%. Dự án không thuộc danh mục này, cơ chế cho vay lại vốn ưu đãi sẽ có tỉ lệ rủi ro tối thiểu 50%. Nhờ đó, các cơ quan cho vay lại sẽ xác định mức chênh lệch chi phí và lãi suất theo mức độ cụ thể.
Mục đích của việc phân chia tỉ lệ rủi ro nhằm đảm bảo các dự án vẫn giữ được chi phí đầu vào, không biến nguồn vốn ưu đãi trong nước thành nguồn vốn của các ngân hàng thương mại cho vay theo cơ chế thị trường.
Dự kiến, vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ từ các nhà tài trợ theo cam kết quốc tế, bao gồm vốn ODA và vay ưu đãi chưa giải ngân của các chương trình, dự án đã ký kết chuyển tiếp từ thời kỳ 2011-2015 sang thời kỳ 2016-2020, là khoảng 22 tỉ đô la Mỹ.
Nguồn: THKTSG
