Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Trước bẫy thu nhập trung bình: Có cùng tắc biến? (11/4)

11/04/2016 - 21 Lượt xem

Lúc đầu, các diễn giả tại hội thảo đều thống nhất với nhau rằng việc có thoát được bẫy hay không chủ yếu nằm ở chính sách công nghiệp.

Việt Nam đang bị kẹt ở lợi thế giá rẻ và cấp thấp

Giáo sư Hansjörg Herr (Đại học Kinh tế - Luật Berlin, Đức), trong tham luận “Khung lý thuyết về bẫy thu nhập trung bình”, đã dẫn lý thuyết về lợi thế so sánh tương đối và thực tế áp dụng nó trên thế giới để chỉ ra rằng chính sách công nghiệp của các nước đang phát triển như Việt Nam đang bị kẹt ở sự tận dụng “lợi thế” lao động giá rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên - đều sử dụng công nghệ cấp thấp. Điều này sẽ càng gia tăng khoảng cách về năng suất so với các nước phát triển, mà đi cùng với đó là khoảng cách về thu nhập.

Giải pháp, như rất nhiều chuyên gia từng chỉ ra, là phải tiến tới chiếm lĩnh các công đoạn cao hơn của chuỗi giá trị toàn cầu, nơi sử dụng công nghệ cao hơn. Nhưng theo Giáo sư Hansjörg Herr, dường như cơ hội này đã bị Việt Nam bỏ lỡ trong hành trình mấy chục năm thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Theo ông, dưới một số điều kiện, việc chuyển giao công nghệ và kỹ thuật từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp nội địa có thể xảy ra, nhưng chắc chắn không có việc chuyển giao... tự động. Các nước tiếp nhận FDI phải tạo ra điều kiện ấy trong luật pháp của mình, Trung Quốc đã phần nào tạo được, Việt Nam tới lúc này thì chưa.

Ông cho rằng cơ hội còn lại, nằm ở đầu kéo - doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bằng cách mua công nghệ tốt của nước ngoài về chia sẻ lại, với lập luận doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện quá yếu, không đủ tiềm lực làm việc này (ở đây cần mở ngoặc nói thêm là vài doanh nghiệp tư nhân được cho là đủ mạnh thì đang mải miết khai thác lợi thế của nhóm lợi ích, quan hệ thân hữu trong thị trường nội địa, không quan tâm đến cạnh tranh toàn cầu).

Vì sao Việt Nam không có tỉ phú công nghệ mà đa số tỉ phú liên quan đến bất động sản, ngân hàng - những nơi tranh tối tranh sáng về quyền sở hữu và mức độ nhân danh để can thiệp của Nhà nước.

Đến đây thì có sự tranh luận, cho dù, như Tiến sĩ Lê Hồng Nhật nói, giải pháp của Giáo sư Hansjörg Herr là đúng về mặt... lý thuyết. Đúng nhưng không... trúng với tình hình thực tế của DNNN của ta hiện nay.

Mặc dù được cho đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, được xác định là công cụ điều tiết vĩ mô và thực hiện chính sách của Nhà nước, thành tích của DNNN trên sân nhà không tương xứng với tiềm lực về vốn, lợi thế độc quyền và khả năng tiếp cận các nguồn lực khác. Lợi thế “ông lớn” không giúp bức tranh công nghệ sáng lên mà ngược lại, với những cú sập bẫy công nghệ lạc hậu, nhà thầu kém chất lượng từ Trung Quốc của các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn như EVN, TKV... Nếu không cải cách triệt để, DNNN không thể cầm ngọn cờ công nghệ.

Tiếp đó, Tiến sĩ Phạm Sỹ Thành cung cấp thêm bằng chứng thực tế là những thất bại của các DNNN hậu cải cách của Trung Quốc. Họ mang một cục tiền ra ngoài mua công nghệ cao về rồi cũng không cạnh tranh xuất khẩu được, đành quay về ôm lợi thế thuộc sở hữu nhà nước cố hữu trong thị trường nội địa.

Vị thế của kinh tế tư nhân ra sao?

Trong buổi sáng, tranh luận dường như không ngã ngũ thì đến buổi chiều, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, với tham luận “Tác động của mối quan hệ Nhà nước - doanh nghiệp tới sản xuất công nghiệp (1986-2012)” bàn về khía cạnh kinh tế chính trị của quá trình phát triển công nghiệp ở Việt Nam, chuyển hướng thảo luận. Đúng là doanh nghiệp tư nhân của nước ta yếu, không thể tự mình thay đổi công nghệ mới cao hơn, nhưng câu hỏi đặt ra là vì sao nó lại yếu, nó có thể mạnh lên hay không và nếu có thể thì vai trò của nó thế nào, đặt trong mối tương quan với DNNN hay nói đúng hơn là chính sách của Nhà nước đối với DNNN.

Theo ông Tự Anh, các yếu tố quyết định của quá trình phát triển công nghiệp chính là mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước với khối tư nhân, dựa trên tư tưởng chính trị và tính chính danh về kinh tế; cấu trúc nội tại của Nhà nước và chất lượng lãnh đạo. Cả ba yếu tố trên đã thay đổi nhanh chóng trong 30 năm qua thông qua việc quan sát ba thế hệ luật pháp liên quan đến các công ty tư nhân.

Sau khi không còn là “mục tiêu cải tạo” và được chính thức chấp nhận là một thành phần kinh tế trong Luật Doanh nghiệp năm 1990, trong vòng một thập kỷ, khu vực tư nhân tăng năm lần về số lượng và vốn đầu tư, vượt qua khu vực nhà nước để trở thành khu vực đóng góp nhiều nhất cho tăng trưởng công nghiệp. Đến khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời, khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành “những người đối thoại chính sách”, số lượng và vốn tăng gấp bảy lần và đóng góp cho tăng trưởng công nghiệp cũng vì vậy mà tiếp tục tăng. Với Luật Doanh nghiệp năm 2005, các tập đoàn kinh tế nhà nước ra đời, tạo ra quan hệ thân hữu làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động bởi chính trị và ngược lại, quan hệ Nhà nước - doanh nghiệp không còn như trước, không thuần túy điều tiết, quản lý doanh nghiệp mà trong nhiều trường hợp doanh nghiệp điều khiển lại Nhà nước. Giai đoạn này, cấu trúc đầu tư giữa ba khu vực DNNN - FDI - doanh nghiệp tư nhân giống hai giai đoạn trước nhưng kết quả hoàn toàn khác: kinh tế Việt Nam rơi vào khó khăn, là nguồn gốc khủng hoảng từ năm 2008 đến nay.

Ông Tự Anh cho rằng một trong những cách vượt bẫy thu nhập trung bình là phải tăng trưởng cao, tức phải công nghiệp hóa nhưng tác động lớn nhất đến phát triển công nghiệp không nhất thiết tới từ các chính sách công nghiệp thật sự cụ thể. Điều quan trọng hơn là định hướng chính trị. Nếu chính trị điều chỉnh mới thay đổi được vị thế của khu vực kinh tế tư nhân. Lãnh đạo phải đặt ưu tiên cho khu vực kinh tế tạo ra năng suất cao hơn.

Sâu bên dưới là việc bảo vệ quyền tư hữu

Hàm ý chính sách này khiến cho tham luận trước đó của Tiến sĩ Võ Trí Hảo, với tựa đề “Tương quan mức độ bảo vệ quyền tư hữu và phát triển kinh tế Việt Nam từ 1986-2016: thành tựu và thách thức” trở thành một mảnh ghép liên quan. Trong tham luận này, câu hỏi mà cũng là kết luận của ông Hảo, là “Cải cách kinh tế từ 1986 đến nay thực chất là cải cách xung quanh quyền tư hữu”, và “Nút thắt kinh tế hiện nay cũng liên quan đến việc bảo vệ quyền tư hữu”.

Kết luận này góp phần lý giải vì sao khu vực doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả cao lại chỉ tuyệt đại đa số là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nó liên quan đến kết quả khảo sát “ngại lớn” của khu vực này, theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2015 vừa mới được công bố, là vì gánh nặng thuế, phí, thủ tục hành chính, thanh kiểm tra... Nhưng sâu bên dưới các nguyên nhân này là nỗi sợ hãi, lo lắng về mức độ bảo vệ quyền tư hữu.

Theo ông Hảo, đổi mới (về quyền tư hữu) 1986 là tiến trình trở về trạng thái của Hiến pháp 1946 nhưng chưa trọn vẹn. Những câu hỏi, thách thức đối với quyền tư hữu hiện nay là quyền tư hữu có bình đẳng không, khi mà Hiến pháp mới ra lệnh cho quy luật kinh tế, quyết định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Là việc tài sản có dễ dịch chuyển không, với quy định hạn mức ngoại tệ được phép mang ra nước ngoài. Là việc đồng tiền nhàn rỗi có được tự do tìm đường đi có lợi nhất không, khi mà nó đang bị ép chảy vào kênh ngân hàng với trần lãi suất. Là những rủi ro quốc hữu hóa, chi phí giao dịch, khi pháp luật dường như “khuyến khích” việc vi phạm hợp đồng (nếu việc đó có lợi) vì các quy định đáo tụng đình (thời gian xử lâu, phí thuê luật sư phải tự chịu, mức độ được bồi thường thấp...). Điều đó góp phần lý giải vì sao Việt Nam không có tỉ phú công nghệ mà đa số tỉ phú liên quan đến bất động sản, ngân hàng - những nơi tranh tối tranh sáng về quyền sở hữu và mức độ nhân danh để can thiệp của Nhà nước.

Nếu những rào cản này được dỡ bỏ, khu vực doanh nghiệp tư nhân muốn và có thể lớn mạnh thì không cần khu vực DNNN bành trướng hoạt động kinh doanh. Nhà nước chỉ nên làm những việc tư nhân không thể hay không muốn làm, chuyện kinh doanh cũng vậy. Nên nhớ, tiềm lực trong dân đang mạnh với tỷ lệ tiết kiệm - tức của để dành - chiếm tới chừng 30% GDP.

Sâu xa, có thoát bẫy thu nhập trung bình được hay không không hẳn tùy thuộc vào chính sách công nghiệp hay nói cách khác, để có được chính sách công nghiệp hiệu quả, cần đặt nó trên nền tảng chính trị cần và đủ nói trên.

Nguồn: TBKTSG

Lúc đầu, các diễn giả tại hội thảo đều thống nhất với nhau rằng việc có thoát được bẫy hay không chủ yếu nằm ở chính sách công nghiệp.

Việt Nam đang bị kẹt ở lợi thế giá rẻ và cấp thấp

Giáo sư Hansjörg Herr (Đại học Kinh tế - Luật Berlin, Đức), trong tham luận “Khung lý thuyết về bẫy thu nhập trung bình”, đã dẫn lý thuyết về lợi thế so sánh tương đối và thực tế áp dụng nó trên thế giới để chỉ ra rằng chính sách công nghiệp của các nước đang phát triển như Việt Nam đang bị kẹt ở sự tận dụng “lợi thế” lao động giá rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên - đều sử dụng công nghệ cấp thấp. Điều này sẽ càng gia tăng khoảng cách về năng suất so với các nước phát triển, mà đi cùng với đó là khoảng cách về thu nhập.

Giải pháp, như rất nhiều chuyên gia từng chỉ ra, là phải tiến tới chiếm lĩnh các công đoạn cao hơn của chuỗi giá trị toàn cầu, nơi sử dụng công nghệ cao hơn. Nhưng theo Giáo sư Hansjörg Herr, dường như cơ hội này đã bị Việt Nam bỏ lỡ trong hành trình mấy chục năm thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Theo ông, dưới một số điều kiện, việc chuyển giao công nghệ và kỹ thuật từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp nội địa có thể xảy ra, nhưng chắc chắn không có việc chuyển giao... tự động. Các nước tiếp nhận FDI phải tạo ra điều kiện ấy trong luật pháp của mình, Trung Quốc đã phần nào tạo được, Việt Nam tới lúc này thì chưa.

Ông cho rằng cơ hội còn lại, nằm ở đầu kéo - doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bằng cách mua công nghệ tốt của nước ngoài về chia sẻ lại, với lập luận doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện quá yếu, không đủ tiềm lực làm việc này (ở đây cần mở ngoặc nói thêm là vài doanh nghiệp tư nhân được cho là đủ mạnh thì đang mải miết khai thác lợi thế của nhóm lợi ích, quan hệ thân hữu trong thị trường nội địa, không quan tâm đến cạnh tranh toàn cầu).

Vì sao Việt Nam không có tỉ phú công nghệ mà đa số tỉ phú liên quan đến bất động sản, ngân hàng - những nơi tranh tối tranh sáng về quyền sở hữu và mức độ nhân danh để can thiệp của Nhà nước.

Đến đây thì có sự tranh luận, cho dù, như Tiến sĩ Lê Hồng Nhật nói, giải pháp của Giáo sư Hansjörg Herr là đúng về mặt... lý thuyết. Đúng nhưng không... trúng với tình hình thực tế của DNNN của ta hiện nay.

Mặc dù được cho đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, được xác định là công cụ điều tiết vĩ mô và thực hiện chính sách của Nhà nước, thành tích của DNNN trên sân nhà không tương xứng với tiềm lực về vốn, lợi thế độc quyền và khả năng tiếp cận các nguồn lực khác. Lợi thế “ông lớn” không giúp bức tranh công nghệ sáng lên mà ngược lại, với những cú sập bẫy công nghệ lạc hậu, nhà thầu kém chất lượng từ Trung Quốc của các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn như EVN, TKV... Nếu không cải cách triệt để, DNNN không thể cầm ngọn cờ công nghệ.

Tiếp đó, Tiến sĩ Phạm Sỹ Thành cung cấp thêm bằng chứng thực tế là những thất bại của các DNNN hậu cải cách của Trung Quốc. Họ mang một cục tiền ra ngoài mua công nghệ cao về rồi cũng không cạnh tranh xuất khẩu được, đành quay về ôm lợi thế thuộc sở hữu nhà nước cố hữu trong thị trường nội địa.

Vị thế của kinh tế tư nhân ra sao?

Trong buổi sáng, tranh luận dường như không ngã ngũ thì đến buổi chiều, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, với tham luận “Tác động của mối quan hệ Nhà nước - doanh nghiệp tới sản xuất công nghiệp (1986-2012)” bàn về khía cạnh kinh tế chính trị của quá trình phát triển công nghiệp ở Việt Nam, chuyển hướng thảo luận. Đúng là doanh nghiệp tư nhân của nước ta yếu, không thể tự mình thay đổi công nghệ mới cao hơn, nhưng câu hỏi đặt ra là vì sao nó lại yếu, nó có thể mạnh lên hay không và nếu có thể thì vai trò của nó thế nào, đặt trong mối tương quan với DNNN hay nói đúng hơn là chính sách của Nhà nước đối với DNNN.

Theo ông Tự Anh, các yếu tố quyết định của quá trình phát triển công nghiệp chính là mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước với khối tư nhân, dựa trên tư tưởng chính trị và tính chính danh về kinh tế; cấu trúc nội tại của Nhà nước và chất lượng lãnh đạo. Cả ba yếu tố trên đã thay đổi nhanh chóng trong 30 năm qua thông qua việc quan sát ba thế hệ luật pháp liên quan đến các công ty tư nhân.

Sau khi không còn là “mục tiêu cải tạo” và được chính thức chấp nhận là một thành phần kinh tế trong Luật Doanh nghiệp năm 1990, trong vòng một thập kỷ, khu vực tư nhân tăng năm lần về số lượng và vốn đầu tư, vượt qua khu vực nhà nước để trở thành khu vực đóng góp nhiều nhất cho tăng trưởng công nghiệp. Đến khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời, khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành “những người đối thoại chính sách”, số lượng và vốn tăng gấp bảy lần và đóng góp cho tăng trưởng công nghiệp cũng vì vậy mà tiếp tục tăng. Với Luật Doanh nghiệp năm 2005, các tập đoàn kinh tế nhà nước ra đời, tạo ra quan hệ thân hữu làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động bởi chính trị và ngược lại, quan hệ Nhà nước - doanh nghiệp không còn như trước, không thuần túy điều tiết, quản lý doanh nghiệp mà trong nhiều trường hợp doanh nghiệp điều khiển lại Nhà nước. Giai đoạn này, cấu trúc đầu tư giữa ba khu vực DNNN - FDI - doanh nghiệp tư nhân giống hai giai đoạn trước nhưng kết quả hoàn toàn khác: kinh tế Việt Nam rơi vào khó khăn, là nguồn gốc khủng hoảng từ năm 2008 đến nay.

Ông Tự Anh cho rằng một trong những cách vượt bẫy thu nhập trung bình là phải tăng trưởng cao, tức phải công nghiệp hóa nhưng tác động lớn nhất đến phát triển công nghiệp không nhất thiết tới từ các chính sách công nghiệp thật sự cụ thể. Điều quan trọng hơn là định hướng chính trị. Nếu chính trị điều chỉnh mới thay đổi được vị thế của khu vực kinh tế tư nhân. Lãnh đạo phải đặt ưu tiên cho khu vực kinh tế tạo ra năng suất cao hơn.

Sâu bên dưới là việc bảo vệ quyền tư hữu

Hàm ý chính sách này khiến cho tham luận trước đó của Tiến sĩ Võ Trí Hảo, với tựa đề “Tương quan mức độ bảo vệ quyền tư hữu và phát triển kinh tế Việt Nam từ 1986-2016: thành tựu và thách thức” trở thành một mảnh ghép liên quan. Trong tham luận này, câu hỏi mà cũng là kết luận của ông Hảo, là “Cải cách kinh tế từ 1986 đến nay thực chất là cải cách xung quanh quyền tư hữu”, và “Nút thắt kinh tế hiện nay cũng liên quan đến việc bảo vệ quyền tư hữu”.

Kết luận này góp phần lý giải vì sao khu vực doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả cao lại chỉ tuyệt đại đa số là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nó liên quan đến kết quả khảo sát “ngại lớn” của khu vực này, theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2015 vừa mới được công bố, là vì gánh nặng thuế, phí, thủ tục hành chính, thanh kiểm tra... Nhưng sâu bên dưới các nguyên nhân này là nỗi sợ hãi, lo lắng về mức độ bảo vệ quyền tư hữu.

Theo ông Hảo, đổi mới (về quyền tư hữu) 1986 là tiến trình trở về trạng thái của Hiến pháp 1946 nhưng chưa trọn vẹn. Những câu hỏi, thách thức đối với quyền tư hữu hiện nay là quyền tư hữu có bình đẳng không, khi mà Hiến pháp mới ra lệnh cho quy luật kinh tế, quyết định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Là việc tài sản có dễ dịch chuyển không, với quy định hạn mức ngoại tệ được phép mang ra nước ngoài. Là việc đồng tiền nhàn rỗi có được tự do tìm đường đi có lợi nhất không, khi mà nó đang bị ép chảy vào kênh ngân hàng với trần lãi suất. Là những rủi ro quốc hữu hóa, chi phí giao dịch, khi pháp luật dường như “khuyến khích” việc vi phạm hợp đồng (nếu việc đó có lợi) vì các quy định đáo tụng đình (thời gian xử lâu, phí thuê luật sư phải tự chịu, mức độ được bồi thường thấp...). Điều đó góp phần lý giải vì sao Việt Nam không có tỉ phú công nghệ mà đa số tỉ phú liên quan đến bất động sản, ngân hàng - những nơi tranh tối tranh sáng về quyền sở hữu và mức độ nhân danh để can thiệp của Nhà nước.

Nếu những rào cản này được dỡ bỏ, khu vực doanh nghiệp tư nhân muốn và có thể lớn mạnh thì không cần khu vực DNNN bành trướng hoạt động kinh doanh. Nhà nước chỉ nên làm những việc tư nhân không thể hay không muốn làm, chuyện kinh doanh cũng vậy. Nên nhớ, tiềm lực trong dân đang mạnh với tỷ lệ tiết kiệm - tức của để dành - chiếm tới chừng 30% GDP.

Sâu xa, có thoát bẫy thu nhập trung bình được hay không không hẳn tùy thuộc vào chính sách công nghiệp hay nói cách khác, để có được chính sách công nghiệp hiệu quả, cần đặt nó trên nền tảng chính trị cần và đủ nói trên.