
WTO và những bài học cho nền kinh tế Việt Nam (20/4)
20/04/2016 - 25 Lượt xem
Tính tới thời điểm hiện tại, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại của Việt Nam, có 02 dấu mốc đặc biệt quan trọng.Thứ nhất, cách đây 10 năm, năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO. Thứ hai, thời điểm hiện nay, Việt Nam đã đàm phán, ký kết 02 Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các đối tác thương mại lớn nhất – Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).Gia nhập WTO là sức ép để Việt Nam sửa đổi, điều chỉnh khung khổ pháp luật, chính sách thương mại, đầu tư từ “theo nhu cầu quản lý” của Việt Nam sang “tuân thủ các tiêu chuẩn” của thế giới (thể hiện trong các Hiệp định của WTO).
Trong 02 năm liền trước và liền sau thời điểm gia nhập WTO (2006-2007), Quốc hội VN đã sửa trên 60 Luật để thực thi cam kết WTO, hàng trăm Nghị định, Thông tư hướng dẫn cũng đã được sửa đổi. Kết quả là pháp luật kinh doanh ở Việt Nam đã có một diện mạo mới cùng với những thay đổi về chất nhờ WTO.
Gia nhập
WTO là động lực để Việt Nam chuyển dần từ phương thức quản lý Nhà nước
can thiệp hành chính sang phương thức quản lý Nhà nước kiến tạo – tôn
trọng quyền tự do kinh doanh, theo quy luật thị trường. Gia nhập WTO và
nhu cầu cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư tận dụng cơ
hội từ WTO là động lực thúc đẩy Việt Nam thực hiện các cải cách theo
hướng minh bạch hóa, thuận lợi hóa và nhấn mạnh yếu tố hiệu quả trong
vận hành bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế.
Lỡ 3 cơ hội vàng trên “chuyến tàu WTO”
Mặc dù vậy, cũng có rất nhiều kỳ vọng đã bị bỏ lỡ trên chuyến tầu WTO của Việt Nam. Thứ nhất, cơ hội tăng trưởng không đạt được kỳ vọng, tăng trưởng GDP 5 năm 2006-2010 đạt 7%, 2011-2015 là 5,88% – Dù vẫn là cao với thế giới nhưng rõ ràng là thấp hơn so với chính VN thời kỳ hội nhập hạn chế hơn trước đó (thấp so với 7,51% của giai đoạn 2001-2005, thậm chí thấp so với 7% của giai đoạn 1996-2000). Vậy phải chăng, thể chế kinh tế và công tác điều hành vĩ mô của Việt Nam còn chưa theo kịp yêu cầu hội nhập (khi nền kinh tế trở nên mỏng manh hơn trước các tác động của kinh tế toàn cầu) ?
Thứ hai, nền nông nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực.Tăng trưởng bình quân của khu vực nông nghiệp năm 2007-2011 là 3,4%/năm, 2011-2015 là 3,1% (thậm chí năm 2015 mức tăng trưởng là thấp nhất, chỉ 2,21%) – trong khi đó tăng trưởng của ngành này giai đoạn 2001-2006 trước WTO là 4 %. Phải chăng, nhóm đối tượng thu nhập thấp, dễ bị tổn thương nhất trong xã hội dường như đã không được lợi hoặc đang chịu áp lực lớn từ hội nhập ?
Thứ ba, cơ cấu xuất nhập khẩu có vấn đề. Mũi nhọn xuất khẩu là các ngành sử dụng tài nguyên, nông nghiệp, gia công thâm dụng lao động; Nhập siêu lớn và tăng mạnh trong thời kỳ sau WTO.Vậy phải chăng, xuất khẩu mang lại giá trị gia tăng thấp, dựa trên các lợi thế không bền vững, không tạo động lực cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đã cho thấy các DN sản xuất của Việt Nam đã không tận dụng được cơ hội của WTO?
Để không lỡ “làn sóng” hội nhập lần thứ hai
Nền kinh tế Việt Nam đang đi đúng hướng, nhưng phải chăng tốc độ đó còn chưa kịp với yêu cầu. Rõ ràng, nếu việc ký kết và thực hiện WTO đã tạo nên làn sóng hội nhập lần thư nhất của nền kinh tế Việt Nam thì việc ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có thể coi như làn sóng hội nhập lần thứ hai.
TPP, EVFTA bao gồm nhiều cam kết nhắc lại, nhấn mạnh việc tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn về thể chế pháp lý, chính sách của WTO. Thực thi TPP, EVFTA vì thế cũng sẽ là cơ sở để VN tiếp tục thực hiện tốt hơn, triệt để hơn, hiệu quả hơn các cam kết trong WTO.TPP, EVFTA đồng thời bao gồm nhiều cam kết quan trọng về thể chế kinh tế – pháp lý, những vấn đề thuộc về khung khổ chính sách đằng sau đường biên giới cao hơn các tiêu chuẩn trong WTO (WTO+). Thực thi TPP, EVFTA sẽ tạo ra một làn sóng cải cách thể chế kinh tế thứ hai sau WTO, với “độ khó” cao hơn giai đoạn 2006-2007 (trong khi bản thân Việt Nam khi thực hiện các cam kết WTO cũng còn gặp khó khăn trong một số trường hợp, ví dụ Hiệp định TRIPS về Sở hữu trí tuệ)
Thực tế cho thấy, TPP, EVFTA có mức độ tự do hóa thương mại (hàng hóa và dịch vụ) cao hơn hẳn so với WTO. Thực thi các cam kết này, Việt Nam sẽ đứng trước những yêu cầu mới cả về khung khổ pháp lý (bởi Việt Nam sẽ phải duy trì song song nhiều mức độ mở cửa khác nhau cho các đối tác FTA trong khi với WTO VN có thể duy trì một hệ thống chung).
Việt Nam có thể tận dụng kinh nghiệm gì từ quá trình thực thi cam kết WTO về thể chế để triển khai thực hiện các cam kết WTO+ trong các FTA mới. Việc thực thi các cam kết FTA mới cũng góp phần tăng hiệu quả thực thi cam kết WTO trong nhiều khía cạnh thể chế. Vậy làm thế nào để kết hợp các nguồn lực, nỗ lực thực thi này để tạo ra sức mạnh cộng hưởng trong cải cách thể chế ?
Các tác động dự kiến: Do chưa có hiệu lực, TPP, EVFTA và các FTA chưa tác động trực tiếp tới hoạt động của nền kinh tế nhưng những tác động gián tiếp ban đầu đã được nhận thấy. Rõ ràng, những kỳ vọng chưa đạt được trong thực thi WTO chắc chắn sẽ còn lớn hơn nữa trong bối cảnh TPP, EVFTA và các FTA do mức độ mở cửa của nền kinh tế, độ sâu của tự do hóa lớn hơn nhiều so với WTO.
Nguồn: DĐDN