Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Ngân hàng yếu khó có “quà” từ hội nhập (15/6)

15/06/2016 - 21 Lượt xem

Vốn, khách hàng, đối tác, công nghệ… được rộng mở đối với các ngân hàng khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) hình thành, Hiệp định TPP được ký kết. Tuy vậy, không phải ngân hàng nào cũng đủ năng lực để nắm bắt cơ hội.

Cơ hội từ sự “thú vị Việt Nam”

Theo một chuyên gia, tài chính - ngân hàng Việt có nhiều nét “đặc thù thú vị”, đó là sự phát triển lạc quan gần đây, bất chấp nền kinh tếTrung Quốc, thị trường hàng hóa thế giới sụt giảm và nhiều bất ổn khác trên thế giới. Chính sự phát triển lạc quan này tạo nhiều cơ hội cho Việt Nam khi AEC hình thành và TPP có hiệu lực.

Chia sẻ quan điểm đó, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, với ngân hàng Việt Nam, hội nhập mang lại cơ hội nhiều hơn thách thức. Cụ thể, theo PGS-TS Hà Văn Hội (Trường Đại học Kinh tế, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), hội nhập sẽ mang lại nhiều tích cực cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, như gia tăng khách hàng, gia tăng nguồn vốn, đa dạng hơn các dịch vụ ngân hàng… Đây là cơ hội để ngân hàng mở rộng dịch vụ, tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng lợi nhuận, bởi khách hàng là doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm vị thế quan trọng đối với nhiều ngân hàng.

“Cơ hội rất nhiều, nhất là trong bối cảnh ngân hàng trong nước đang gặp nhiều hạn chế về vốn, công nghệ, nhân lực…, nhưng vấn đề là ngân hàng phải có năng lực để tiếp nhận cơ hội đó. Chẳng hạn, khi hội nhập, sẽ có nguồn vốn lớn, vốn rẻ vào Việt Nam, song quan trọng là năng lực hấp thu nguồn vốn đó”, bà Nguyễn Thùy Dương, Phó tổng giám đốc Dịch vụ tài chính, Ngân hàng Ernst & Young Việt Nam nhận định.

Được biết, nhiều ngân hàng trong nước, nhất là 3 ngân hàng tốp đầu là BIDV, Vietcombank và VietinBank, đang nỗ lực tăng vốn để theo kịp “ngân hàng chuẩn ASEAN”. Tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2016, BIDV đặt ra nhiệm vụ đến năm 2018 phải cơ bản đạt được nền tảng của một “ngân hàng đạt chuẩn ASEAN”.

Hiện nay, so về quy mô, ngân hàng trong nước còn nhỏ bé so với các ngân hàng lớn trong khu vực (tổng tài sản chỉ bằng một nửa). Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Thùy Dương, nếu chỉ tăng vốn thôi là chưa đủ, mà quan trọng hơn, các ngân hàng phải đủ sức khỏe toàn diện để có thể cạnh tranh. Trước mắt, ngân hàng cần tập trung nâng cao chất lượng nhân lực, công nghệ và quản trị rủi ro.

Ngân hàng yếu bán cũng không có ai mua

Đại diện một công ty kiểm toán cho hay, gần đây, hầu như mỗi tuần, công ty đều tiếp một quỹ đầu tư có mong muốn tiếp cận thị trường Việt Nam, nhưng khi đi sâu tìm hiểu, nhà đầu tư nào cũng e ngại. “Họ lo ngại vì hành lang pháp lý chưa rõ ràng, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng. Họ rất sợ rủi ro nếu ngân hàng bị mua lại với giá 0 đồng”, vị đại diện này cho hay.

Để Việt Nam thực sự là miếng bánh thơm ngon, nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng, trước hết, cần phải đẩy nhanh dọn dẹp ngân hàng yếu, hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư.

Tất nhiên, trong hội nhập, việc mở cửa thị trường, nới room sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết. Tuy nhiên, theo ông Gary, điều khó là Việt Nam cần tính toán để cân bằng lợi ích quốc gia, bởi mở cửa quá nhanh sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị ‘ăn thịt”, còn mở cửa quá chậm, ngân hàng Việt sẽ cơ mất cơ hội.

Trên thực tế, tuy room ngân hàng chưa được nới sâu, song kinh nghiệm của nhiều ngân hàng như Techcombank, VIB… cho thấy, tận dụng được kinh nghiệm quản lý, công nghệ quản lý của đối tác nước ngoài là một hướng đi đúng, giúp các ngân hàng này lột xác trong quản trị. Đây cũng là tiền đề cho hội nhập.

Trong khi đó, một số ngân hàng vẫn mải mê chạy theo lợi nhuận, quên đi nguyên tắc quản trị rủi ro, lấy túi trái cho vay túi phải, cho vay sân sau…, nên không sớm thì muộn, các ngân hàng này sẽ gặp bong bóng tài sản và khó cạnh tranh khi kinh tế mở cửa.

Với những ngân hàng có sức khỏe kém, kỳ vọng kêu gọi đối tác ngoại rót vốn là không hề dễ dàng. Thực tế, đã nhiều đối tác ngoại tìm hiểu về một số ngân hàng yếu kém, nhưng sau đó “lắc đầu” buông tay. Điều này có nghĩa, ngân hàng yếu không thể kỳ vọng AEC hay TPP mang lại “quà”, nhất là khi thị trường mở cửa, việc cung cấp dịch vụ xuyên biên giới ngày càng trở nên dễ dàng.

Nguồn: Đầu tư.

Là một trong những chuyên đề giám sát hiếm hoi xuyên qua hai nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XIII và khóa XIV), hiệu quả thực hiện chương trình nông thôn mới cũng như những kinh nghiệm rút ra nhằm thúc đẩy chương trình “về đích” đang và sẽ còn là vấn đề được công luận đặc biệt chú ý. Nhất là trong bối cảnh đã xuất hiện những lời cảnh báo nghiêm khắc về tình trạng chạy đua để “báo công”, bất  chấp nợ đọng, bất chấp việc huy động quá sức dân. “Nếu cán bộ có thành tích, người dân có công trình thì tốt quá, miễn là công trình ấy phát huy hiệu quả trên thực tế, góp phần thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp, đem lại tăng trưởng bền vững. Tiếc là ở nhiều nơi, nhiều chỗ lại không phải như vậy”, ông Nguyễn Văn Phúc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội, thành viên Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bày tỏ trăn trở.

Đi đến rất nhiều địa phương, trước câu hỏi của đoàn giám sát về tình hình nợ đọng do đầu tư phát triển nông thôn mới quá lớn so với nguồn vốn có thể thu xếp, câu trả lời luôn luôn là “chúng tôi sẽ có cách”. Nhưng gạn hỏi cách cụ thể thế nào thì tựu trung vẫn là chờ phân bổ ngân sách theo kiểu “bắc nước chờ gạo”, hoặc bán đất. Tuy thế, sẽ là phiến diện khi chỉ nêu ra và phê phán “bệnh thành tích” ở một số địa phương mà quên mất những cách làm hay. Tại Đồng Nai, lãnh đạo địa phương đã có một cách làm dũng cảm: lựa chọn những xã, huyện khó khăn nhất để thí điểm xây dựng nông thôn mới, thay vì lựa chọn những địa bàn có sẵn những điều kiện thuận lợi (thậm chí đã đạt được hàng chục tiêu chí trong bộ tiêu chí nông thôn mới ngay từ trước khi tiến hành chương trình). Cách đi “ngược gió” này tuy gian nan vất vả, nhưng lại rút ra được nhiều kinh nghiệm tốt để nhân rộng mô hình trên địa bàn.

Ông Nguyễn Văn Phúc cho biết đã đến thăm một hộ gia đình chỉ có hai vợ chồng cao tuổi làm kinh tế vườn ở Hà Tĩnh. “Con cái đều đi làm ăn xa, nhưng hai ông bà làm kinh tế vườn rất giỏi; họ đã áp dụng mô hình tưới nhỏ giọt để tiết kiệm nước. Vườn hoa và cây ăn quả của gia đình hai ông bà cho thu hoạch mỗi năm 300 triệu đồng, rất đáng để xem xét, nhân rộng”. Cần nói thêm rằng, ở trường hợp này, việc “xã hội hóa” đầu tư cho xây dựng, phát triển nông thôn mới cũng đã rất thành công: Vốn liếng của những thành viên trong gia đình gửi về đã được cha mẹ họ đầu tư để trang bị hệ thống tưới nước khoa học, tiết kiệm được công sức và tài nguyên.

“Xã hội hóa” xây dựng nông thôn mới cần được làm thực chất và bền vững hơn. Không thể “bắt” những người dân còn đang rất khó khăn đóng góp quá nhiều; cũng như không thể yêu cầu các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn làm từ thiện một cách miễn cưỡng. Việc doanh nghiệp đóng góp xây dựng các công trình phúc lợi xã hội chỉ nên áp dụng đối với những địa bàn thuộc diện khó khăn, ở vùng sâu, vùng xa, những địa bàn từng là căn cứ địa cách mạng... Ở những nơi còn lại, cần tìm ra những địa chỉ đầu tư vốn thích hợp (như đầu tư vào đường giao thông, trung tâm thương mại, xây dựng nhà xưởng, cửa hàng...) để doanh nghiệp có cơ hội thu hồi vốn và tìm kiếm lợi nhuận hợp lý. Đặc biệt, cần ưu tiên cho những doanh nghiệp phát triển sản xuất, cung cấp dịch vụ nông nghiệp, tạo đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, thủ công; giúp bà con thoát nghèo, làm giàu chính đáng. Mỗi nơi có một đặc điểm riêng, nên cách làm cũng không thể rập khuôn.

- See more at: http://sggp.org.vn/nongnghiepkt/2016/6/423525/#sthash.kT7wUavF.dpuf

Là một trong những chuyên đề giám sát hiếm hoi xuyên qua hai nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XIII và khóa XIV), hiệu quả thực hiện chương trình nông thôn mới cũng như những kinh nghiệm rút ra nhằm thúc đẩy chương trình “về đích” đang và sẽ còn là vấn đề được công luận đặc biệt chú ý. Nhất là trong bối cảnh đã xuất hiện những lời cảnh báo nghiêm khắc về tình trạng chạy đua để “báo công”, bất  chấp nợ đọng, bất chấp việc huy động quá sức dân. “Nếu cán bộ có thành tích, người dân có công trình thì tốt quá, miễn là công trình ấy phát huy hiệu quả trên thực tế, góp phần thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp, đem lại tăng trưởng bền vững. Tiếc là ở nhiều nơi, nhiều chỗ lại không phải như vậy”, ông Nguyễn Văn Phúc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội, thành viên Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bày tỏ trăn trở.

Đi đến rất nhiều địa phương, trước câu hỏi của đoàn giám sát về tình hình nợ đọng do đầu tư phát triển nông thôn mới quá lớn so với nguồn vốn có thể thu xếp, câu trả lời luôn luôn là “chúng tôi sẽ có cách”. Nhưng gạn hỏi cách cụ thể thế nào thì tựu trung vẫn là chờ phân bổ ngân sách theo kiểu “bắc nước chờ gạo”, hoặc bán đất. Tuy thế, sẽ là phiến diện khi chỉ nêu ra và phê phán “bệnh thành tích” ở một số địa phương mà quên mất những cách làm hay. Tại Đồng Nai, lãnh đạo địa phương đã có một cách làm dũng cảm: lựa chọn những xã, huyện khó khăn nhất để thí điểm xây dựng nông thôn mới, thay vì lựa chọn những địa bàn có sẵn những điều kiện thuận lợi (thậm chí đã đạt được hàng chục tiêu chí trong bộ tiêu chí nông thôn mới ngay từ trước khi tiến hành chương trình). Cách đi “ngược gió” này tuy gian nan vất vả, nhưng lại rút ra được nhiều kinh nghiệm tốt để nhân rộng mô hình trên địa bàn.

Ông Nguyễn Văn Phúc cho biết đã đến thăm một hộ gia đình chỉ có hai vợ chồng cao tuổi làm kinh tế vườn ở Hà Tĩnh. “Con cái đều đi làm ăn xa, nhưng hai ông bà làm kinh tế vườn rất giỏi; họ đã áp dụng mô hình tưới nhỏ giọt để tiết kiệm nước. Vườn hoa và cây ăn quả của gia đình hai ông bà cho thu hoạch mỗi năm 300 triệu đồng, rất đáng để xem xét, nhân rộng”. Cần nói thêm rằng, ở trường hợp này, việc “xã hội hóa” đầu tư cho xây dựng, phát triển nông thôn mới cũng đã rất thành công: Vốn liếng của những thành viên trong gia đình gửi về đã được cha mẹ họ đầu tư để trang bị hệ thống tưới nước khoa học, tiết kiệm được công sức và tài nguyên.

“Xã hội hóa” xây dựng nông thôn mới cần được làm thực chất và bền vững hơn. Không thể “bắt” những người dân còn đang rất khó khăn đóng góp quá nhiều; cũng như không thể yêu cầu các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn làm từ thiện một cách miễn cưỡng. Việc doanh nghiệp đóng góp xây dựng các công trình phúc lợi xã hội chỉ nên áp dụng đối với những địa bàn thuộc diện khó khăn, ở vùng sâu, vùng xa, những địa bàn từng là căn cứ địa cách mạng... Ở những nơi còn lại, cần tìm ra những địa chỉ đầu tư vốn thích hợp (như đầu tư vào đường giao thông, trung tâm thương mại, xây dựng nhà xưởng, cửa hàng...) để doanh nghiệp có cơ hội thu hồi vốn và tìm kiếm lợi nhuận hợp lý. Đặc biệt, cần ưu tiên cho những doanh nghiệp phát triển sản xuất, cung cấp dịch vụ nông nghiệp, tạo đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, thủ công; giúp bà con thoát nghèo, làm giàu chính đáng. Mỗi nơi có một đặc điểm riêng, nên cách làm cũng không thể rập khuôn.

- See more at: http://sggp.org.vn/nongnghiepkt/2016/6/423525/#sthash.kT7wUavF.dpuf