Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Chiến lược đầu tư đa dạng (08/9)

08/09/2016 - 29 Lượt xem

Sở hữu siêu thị dọn đường cho hàng Thái?

Các doanh nghiệp Thái đã chi rất nhiều tiền để thâu tóm các chuỗi bán lẻ trong nước. Đến nay, các doanh nghiệp Thái đã sở hữu bốn chuỗi siêu thị lớn bậc nhất Việt Nam, chiếm trên 50% thị trường mảng siêu thị trong nước. Động thái thâu tóm chuỗi bán lẻ này của Thái Lan được giới phân tích cho là một cách “dọn đường” để đẩy mạnh đưa hàng hóa nước này vào Việt Nam.

Theo giới phân tích, đối với nền kinh tế Thái, các kênh đầu tư đang trở nên bão hòa, đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việt Nam có số dân cao gần gấp đôi ở Thái Lan (khoảng 50 triệu dân), người tiêu dùng Việt Nam lâu nay chuộng hàng Thái, hai nước có sự gần gũi về địa lý, văn hóa và lối sống, Cộng đồng kinh tế chung ASEAN (AEC) hình thành dỡ bỏ hàng rào thuế quan nội khối... là những lý do thúc đẩy doanh nghiệp Thái Lan chọn Việt Nam để mở rộng không gian tiêu thụ sản phẩm.

Do đó, dù có nhiều đối thủ cạnh tranh nhưng với việc chịu chi nhiều tiền hơn, các doanh nghiệp Thái Lan thường là người thành công trong việc mua các doanh nghiệp tại Việt Nam. Giá trị thương vụ mua lại Cash&Carry (655 triệu euro) hay Big C (1,05 tỉ đô la Mỹ) được cho là khá cao so với giá trị thực.

Ông Masataka Yoshida, Giám đốc điều hành cao cấp của Recof, tập đoàn chuyên tư vấn các thương vụ M&A, cho rằng thị trường Thái và Nhật cùng có dấu hiệu của sự bão hòa, do đó các doanh nghiệp của hai nền kinh tế này hướng vào thị trường bán lẻ Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp Thái tỏ ra quyết tâm cao và nhanh hơn.

Chọn doanh nghiệp sản xuất lớn?

Gần ba năm nay các doanh nghiệp Thái đã tăng tốc thâu tóm các doanh nghiệp Việt có thị phần lớn trong ngành nhựa. Tập đoàn SCG của nước này đã thâu tóm 80% cổ phần của Công ty Bao bì nhựa Tín Thành (Batico) sau khi mua trên 20% cổ phần Nhựa Bình Minh và gần 25% Nhựa Tiền Phong... Một nhà quản lý doanh nghiệp nhựa trong nước bình luận: doanh nghiệp Thái chấp nhận đưa ra giá mua rất cao trong khi một số doanh nghiệp nhựa trong nước thiếu tự tin về khả năng cạnh tranh nên quyết định bán. Lượng tiêu thụ nhựa bình quân đầu người mỗi năm ở Việt Nam mới chỉ 40 ki lô gam, trong khi ở Thái Lan là 80 ki lô gam, tính ra dung lượng thị trường Việt Nam còn rất lớn.

Trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, doanh nghiệp Thái cũng chọn mua những doanh nghiệp có thị phần lớn, thương hiệu mạnh nhằm nhanh chóng có vị trí trên thị trường. Mới đây, tập đoàn xi măng lớn thứ hai Thái Lan, Siam City Cement (SCCC) cho biết đã thỏa thuận mua lại 65% cổ phần LafargeHolcim Việt Nam với giá hơn nửa tỉ đô la Mỹ. Sau 23 năm hoạt động, LafargeHolcim Việt Nam được đánh giá là một trong những liên doanh thành công ở Việt Nam với công suất 6,3 triệu tấn/năm (có năm nhà máy xi măng, bên cạnh hoạt động sản xuất bê tông ướt lớn ở khu vực phía Nam).

Theo lãnh đạo SCG, trong thời gian qua những doanh nghiệp Việt Nam mà tập đoàn này mua lại đều đem về lợi nhuận hoặc hoạt động tốt hơn. Trong đó, đáng chú ý là Công ty cổ phần Prime Group (SCG chi gần 240 triệu đô la Mỹ để mua lại 85% cổ phần) đã đưa SCG trở thành doanh nghiệp sản xuất gạch ốp lát lớn nhất thế giới.

Gia tăng đầu tư trực tiếp

Việt Nam ngày càng cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, và các rào cản thuế quan lần lượt được dỡ bỏ trong khuôn khổ AEC, các hiệp định thương mại tự do (FTA) và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt Nam đã ký kết. Nhiều nhà đầu tư Thái đang có kế hoạch mở rộng đầu tư trực tiếp sang Việt Nam để tranh thủ ưu đãi thuế đối với sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam, làm bàn đạp đẩy mạnh hoạt động bán hàng sang các nước khác...

SCG đã rót khoảng 860 triệu đô la Mỹ vào Việt Nam với nhiều dự án khác nhau và tập đoàn đang tiếp tục tìm cơ hội đầu tư dự án khác. “Chiến lược kinh doanh của SCG là mở rộng hoạt động sang các nước ASEAN, và Việt Nam là một trong những đích đến tiềm năng của tập đoàn”, ông Roongrote Rangsiyopash, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc điều hành của SCG, khẳng định và hy vọng số vốn đầu tư của SCG tại Việt Nam sẽ đạt khoảng một tỉ đô la Mỹ vào cuối năm nay. Mục tiêu này có thể đạt được bởi SCG đang tiếp tục đầu tư mở rộng nhà máy sản xuất giấy công nghiệp ở Bình Dương, đầu tư dây chuyền gạch men mới ở miền Bắc...

Một số doanh nghiệp Thái khác cũng tìm hướng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong bối cảnh giá nhân công và các chi phí khác tại Thái gia tăng.

Amata - nhà phát triển hạ tầng sản xuất công nghiệp của Thái Lan - cho rằng Việt Nam là điểm đến hấp dẫn không chỉ đối với doanh nghiệp Thái, mà còn đối với cả doanh nghiệp nước ngoài khác, nên Amata sẽ phát triển thêm hạ tầng khu công nghệ ở Đồng Nai, sau thành công với dự án khu công nghiệp Amata ở tỉnh này.

“Hơn 1.000 đối tác của chúng tôi là những tập đoàn, công ty lớn đang sản xuất kinh doanh tại Thái Lan có nhu cầu mở rộng sang các nước, trong đó đáng chú ý là nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng Việt Nam”, ông Vikrom Kromadit, người sáng lập tập đoàn Amata, nói và ông tin tưởng rằng làn sóng FDI thứ hai sẽ bùng nổ tại Việt Nam để Amata tiếp tục rót vốn lớn.

“Ngoài hội nhập thông qua AEC, các FTA và TPP, Việt Nam đang xây dựng hệ thống pháp lý và chính sách để tạo được môi trường đầu tư hấp dẫn, là cơ hội lớn cho Việt Nam cũng như chúng tôi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài”, bà Somhatai Panichewa, Tổng giám đốc Amata Việt Nam, nói.

Theo Cục Đầu tư nước ngoài, đến tháng 7-2016, đầu tư trực tiếp của Thái Lan đã đạt hơn 9,4 tỉ đô la Mỹ với 466 dự án, xếp thứ 10 trong số 115 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án ở Việt Nam. Hầu hết các dự án đầu tư của Thái Lan tập trung vào các lĩnh vực xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, xây dựng đô thị mới, khách sạn, du lịch, công nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng...

Nguồn: TBKTSG

Mở rộng kênh tiếp cận khách hàng

Doanh nghiệp Thái Lan đang tiếp cận người tiêu dùng Việt theo phương cách mới, không chỉ qua kênh bán hàng truyền thống như lâu nay mà còn đẩy mạnh bán hàng qua kênh bán lẻ hiện đại, như các siêu thị, cửa hàng tiện lợi và cả bán... trực tuyến. 

Trao đổi e-mail với TBKTSG, ông Pawat Sivapanitch, Tổng giám đốc của Công ty Kiss of Beauty Co., Ltd. (Thái Lan), cho biết hiện công ty đang sản xuất, kinh doanh mỹ phẩm thương hiệu Malissa Kiss. Trước đây, sản phẩm được bán không chính thức vào thị trường Việt Nam thông qua những người bán hàng trực tuyến tại Việt Nam (họ đến Thái Lan mua về bán lại). Qua đó, Kiss of Beauty Co., Ltd. nhận thấy tiềm năng và cơ hội tại thị trường Việt Nam.

Vào năm 2014, công ty này đã xuất khẩu được nhiều sản phẩm làm trắng da (với thương hiệu Kiss Skincare) vào thị trường Việt Nam thông qua kênh thương mại truyền thống và bán hàng trực tuyến. Doanh số tăng nhanh trong một năm đầu tiên. Tuy nhiên, sau đó, phát sinh vấn đề hàng giả tại Việt Nam, nhưng công ty không xử lý được vì chưa hiện diện về mặt pháp lý để có thể tiến hành kiện tụng tại Việt Nam. Đến năm 2015, công ty đổi tên thương hiệu sang Malissa Kiss và nhắm vào thị trường Việt Nam một lần nữa. Công ty đã được Cục Xúc tiến thương mại quốc tế (DITP) - Bộ Thương mại Thái Lan mời tham gia triển lãm ở Việt Nam để tìm kiếm đối tác hoặc nhà phân phối. Trong năm 2016, công ty đã tham gia triển lãm Top Thai Brand 2016 tại TPHCM (vào tháng 5-2016), và Viet Beauty 2016.

“Với xu hướng sử dụng mạng xã hội ngày càng nhiều, chúng tôi tin rằng đây sẽ là kênh hiệu quả để kết nối với khách hàng mục tiêu. Tại thị trường Việt Nam, số người sử dụng Facebook và các kênh mạng xã hội đang tăng nhanh. Tuy nhiên, chúng tôi cần phải hiểu hành vi mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam để có thể tiếp cận với cách marketing phù hợp. Do đó, chúng tôi đang gặp gỡ các đối tác Việt Nam để hiểu hơn nữa về thị trường mỹ phẩm tại đây”, ông Pawat Sivapanitch cho biết.

“Chúng tôi mong chờ thâm nhập vào thị trường Việt Nam một cách chính thức để kinh doanh thành công và bền vững”, vị này nói thêm.