Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thông tư số 34 và kiều hối (14/9)

14/09/2016 - 38 Lượt xem

Thông tư số 34/2015/TT-NHNN ngày 31-12-2015 được Ngân hàng Nhà nước ban hành hướng dẫn hoạt động cung ứng dịch vụ nhận và chi, trả ngoại tệ có hiệu lực từ ngày 1-3-2016 (Thông tư 34) có nhiều điểm bất cập.

Thứ nhất, Thông tư 34 xây dựng một nguyên tắc mang tính hành chính, hạn chế sự tự do của thị trường.
Khoản 4, điều 3 của Thông tư 34 về nguyên tắc cung ứng dịch vụ nhận và chi, trả ngoại tệ của tổ chức tín dụng (TCTD), tổ chức kinh tế (TCKT) quy định: “Một TCTD chỉ được làm đại lý chi, trả ngoại tệ cho một TCKT”. Theo số liệu thống kê và trên thực tế, số lượng TCTD, chi nhánh TCTD và số lượng các TCKT luôn không cân bằng nhau. Như vậy, sẽ có những TCKT có nhu cầu nhưng không thể có TCTD, chi nhánh TCTD làm đại lý cho mình, hoạt động chọn đại lý của TCKT để làm dịch vụ chi trả ngoại tệ sẽ bị... trói chặt. Việc triển khai quy định trên hoàn toàn có khả năng nảy sinh tiêu cực (nhũng nhiễu, hối lộ...) để các TCKT được làm việc với các TCTD tốt trên thị trường.

Thứ hai, khoản 1, điều 7 thông tư này quy định: “TCKT trực tiếp nhận và chi, trả ngoại tệ phải mở 01 (một) tài khoản thanh toán cho từng loại ngoại tệ tại 01 (một) ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép trên địa bàn nơi đặt trụ sở chính để thực hiện chi, trả ngoại tệ (sau đây gọi là tài khoản chuyên dùng ngoại tệ)”.

Hiện có hai cách hiểu dẫn tới hai cách áp dụng luật khác nhau về nội dung này:

Một là, TCKT phải mở một tài khoản thanh toán ngoại tệ tại một TCTD nơi đặt trụ sở chính. Còn TCKT có thể mở nhiều tài khoản thanh toán ngoại tệ tại trụ sở chính và nhiều nơi khác nhau mà không vi phạm, bởi thông tư nêu “phải mở 01 (một) tài khoản” chứ không nêu là “chỉ được mở 01 (một) tài khoản thanh toán”.
Hai là, TCKT chỉ được mở một tài khoản thanh toán ngoại tệ tại một TCTD nơi đặt trụ sở chính, ngoài ra, không được mở tài khoản thanh toán ngoại tệ thứ hai.

Vậy, cách hiểu nào là đúng để TCKT thực hiện đúng, không bị xử phạt?

Thứ ba, khoản 2, điều 7 của thông tư quy định: “Trường hợp TCKT trực tiếp nhận và chi, trả ngoại tệ thực hiện chi, trả ngoại tệ tại chi nhánh trên địa bàn tỉnh, thành phố khác nơi đặt trụ sở chính, TCKT được mở 01 (một) tài khoản chuyên dùng cho từng loại ngoại tệ tại 01 (một) ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép trên địa bàn nơi TCKT mở chi nhánh để chi nhánh sử dụng tài khoản này thực hiện chi, trả ngoại tệ trên địa bàn đó”.

Quy định trên có những điều không rõ ràng. Trường hợp TCKT chi trả ngoại tệ tại nơi không có chi nhánh thì có phải mở chi nhánh, rồi mở tài khoản tại địa bàn chi nhánh để thực hiện chi trả ngoại tệ không? Nếu chi trả tại trong cả nước thì buộc phải lập 62 chi nhánh tại các tỉnh thành còn lại để mở tài khoản ngoại tệ chuyên dùng để chi trả?

Thứ tư, tiết i, điểm a, khoản 4, điều 7 quy định: “Tài khoản chuyên dùng ngoại tệ được sử dụng để thực hiện các giao dịch thu, chi sau đây: ... (i) Nhận ngoại tệ từ nước ngoài chuyển về”.

Nếu có sự hạch toán độc lập giữa công ty và chi nhánh thì giải quyết thế nào? Bởi đối với TCKT có chi nhánh hạch toán độc lập thì dòng tiền hoàn toàn có thể độc lập, không bị phụ thuộc vào tài khoản của trụ sở chính. Việc chi nhánh hạch toán độc lập hay phụ thuộc được quy định từ trước tới nay tại các Luật Doanh nghiệp, Luật Kế toán và quá trình thực hiện không có gì vướng mắc. Vậy tại sao lại buộc chuyển tiền qua tài khoản của trụ sở chính?

Xét về mục tiêu quản lý, quy định này tạo thuận lợi cho việc tổng hợp, phân loại, xếp hạng mục, nguồn dòng tiền ngoại tệ chuyển vào TCKT. Tuy nhiên, về mặt kinh tế thì việc buộc dòng tiền phải đi vào tài khoản tại trụ sở chính của công ty sau đó mới chuyển đến tài khoản của chi nhánh sẽ phát sinh thêm thời gian chuyển tiền, chi phí chuyển tiền, khiến tiền đến tay người nhận trễ hơn. Còn về mặt thị trường, nó làm hạn chế khả năng cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế với nhau.

Theo tôi, việc đặt ra các quy định của các cơ quan quản lý nhà nước cần trên tinh thần cải cách, mở cửa, tôn trọng quyền tự do của công dân, tổ chức, trong đó có quyền tự do kinh doanh được quy định tại điều 33 của Hiến pháp 2013.

Một trong những nhóm đối tượng bị ảnh hưởng, tác động trực tiếp của Thông tư 34 là các công ty làm dịch vụ kiều hối để chuyển tiền của bà con Việt kiều về nước.

Theo một báo cáo do Ngân hàng Thế giới (WB) công bố mới đây, Việt Nam đón lượng kiều hối 12,25 tỉ đô la Mỹ trong năm 2015, đứng thứ 11 thế giới. Hiện có gần 5 triệu người Việt Nam cư trú tại 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Từ năm 1993-2014, Việt Nam nhận tổng cộng 96,66 tỉ đô la Mỹ kiều hối, chiếm 6,8% GDP trong thời kỳ này. Có thể nói, Thông tư 34 ảnh hưởng tới gần 5 triệu người Việt Nam đang ở nước ngoài, tới hơn 12 tỉ đô la Mỹ kiều hối dự kiến trong năm 2016, chiếm gần 7% GPD.

Cần bãi bỏ những quy định bất cập, ngược với thực tiễn, cản trở quyền tự do kinh doanh trong Thông tư 34.

Nguồn: TBKTSG