
Cần cơ chế giám sát đặc biệt để ngăn tái phạm (26/9)
26/09/2016 - 26 Lượt xem
Chẳng hạn trong vụ việc Formosa (hoạt động xả thải của Công ty Formosa được cho là nguyên nhân gây ra sự cố ô nhiễm biển các tỉnh miền Trung), Nhà nước không chỉ cần phải quan tâm đến các yêu cầu phục hồi môi trường biển và bồi thường thiệt hại cho người dân mà Nhà nước còn phải đảm bảo ở mức độ cao nhất trước người dân rằng Formosa sẽ không được phép gây ra một thảm họa tương tự trong tương lai.
Nhưng giải pháp nào để ngăn chặn hiệu quả hành vi tái phạm của những doanh nghiệp như Formosa?
Nhà nước có thể làm gì?
Thực tế, hiện không có nhiều lựa chọn cho Nhà nước để ngăn chặn tái phạm.
Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 chỉ đơn giản quy định tái phạm là một trong các tình tiết tăng nặng khi xem xét xử lý các vi phạm hành chính của tổ chức, cá nhân bao gồm doanh nghiệp. Nói cách khác, doanh nghiệp sẽ chịu sự trừng phạt nghiêm khắc hơn nếu tái diễn hành vi vi phạm.
Cơ chế này có thể có tác dụng răn đe nhất định và khiến doanh nghiệp phải cẩn trọng hơn trong hành xử của mình. Nhưng răn đe thôi hoàn toàn không đủ vì dù sao Nhà nước vẫn ở thế thụ động, phải dựa vào ý thức của doanh nghiệp là chủ yếu thay vì chủ động ngăn chặn tái phạm. Xử nặng hơn, mặt khác, cũng chỉ mang ý nghĩa giải quyết chuyện đã rồi nhiều hơn là hành động mang tính “đánh chặn”.
Đấy là chưa nói đến chuyện nhiều doanh nghiệp có thể chấp nhận mạo hiểm tái phạm vì theo tính toán của họ chi phí để tuân thủ quy định luật pháp quá tốn kém khiến hoạt động kinh doanh không còn hiệu quả như mong đợi.
Một biện pháp khác: cơ quan công quyền có thể tăng cường thanh tra, giám sát doanh nghiệp có lịch sử tuân thủ xấu. Tuy nhiên, thanh tra dù sao cũng mang tính xác suất, chỉ thực hiện trong một giai đoạn nhất định - thường trong ngắn hạn và chỉ xem xét một hoặc một số lĩnh vực cụ thể mà không hoặc khó có thể xem xét toàn diện hoạt động của doanh nghiệp. Tất nhiên, còn chưa bàn đến sự liêm chính và thiếu thực chất của hoạt động thanh tra trong nhiều trường hợp.
Khi đoàn thanh tra rút đi, doanh nghiệp lại “đóng cửa bảo nhau” và khó biết họ sẽ làm gì trong “lãnh địa” của mình.
Nhóm giải pháp giáo dục để tăng cường nhận thức về tuân thủ luật pháp, như thường lệ, cũng luôn được nhắc đến nhưng dường như mới chỉ chủ yếu nằm trên giấy thay vì có ý nghĩa thực tiễn.
Do đó, có lẽ cần tính đến một cơ chế khác hiệu quả hơn nhằm ngăn chặn “kẻ xấu” tái phạm.
Giám sát đặc biệt?
Rõ ràng Nhà nước không thể và không nên đặt niềm tin và phó mặc vào sự tự nguyện “hoàn lương” của các doanh nghiệp đã có hành vi vi phạm gây ra hậu quả ở mức độ thảm họa hoặc xâm hại đến sự an toàn của cộng đồng.
Là người chịu trách nhiệm cuối cùng về sức khỏe, tính mạng của người dân, Nhà nước, nếu không thể đóng cửa doanh nghiệp dạng này, cần chủ động can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp vi phạm và nhanh chóng ngăn cản, cấm các động thái, hành động có thể gây hại của doanh nghiệp đó.
Để can thiệp, có lẽ Nhà nước cần cơ chế cho “giám sát đặc biệt” bên cạnh cơ chế thanh tra, giám sát định kỳ như hiện nay. Theo đó, “nhất cử, nhất động” của doanh nghiệp vi phạm phải được báo cáo, giải trình và được giám sát bởi một tổ chức thường trực tạm gọi là ủy ban giám sát do Nhà nước thành lập.
Nhà nước cũng có thể chỉ định một tổ chức độc lập, có chuyên môn thực hiện nhiệm vụ giám sát này chứ không cần trực tiếp làm điều này. Tất nhiên trong trường hợp đó, tổ chức được chỉ định sẽ báo cáo để Nhà nước ra quyết định can thiệp khi cần thiết.
Ủy ban giám sát phải được doanh nghiệp chia sẻ thông tin, báo cáo và có quyền can thiệp vào bất kỳ quyết định nào của doanh nghiệp vi phạm mà họ cho rằng có thể dẫn đến việc không tuân thủ luật pháp. Phạm vi giám sát có thể không chỉ trong lĩnh vực mà doanh nghiệp đã có tiền sử vi phạm mà còn phải mở rộng ra các lĩnh vực khác - những lĩnh vực có khả năng ảnh hưởng đến an toàn xã hội, lợi ích công cộng hoặc bất kỳ lĩnh vực nào khác mà ủy ban giám sát thấy cần thiết.
Giám sát đặc biệt tất nhiên chỉ nên kéo dài trong một thời hạn nhất định tùy thuộc vào quy mô, tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm và tinh thần, kết quả hợp tác của doanh nghiệp vi phạm.
Nhà nước cũng không nên dùng tiền thuế của dân để chi trả cho hoạt động giám sát đặc biệt. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải chịu toàn bộ chi phí cho hoạt động của ủy ban giám sát và các chi phí phát sinh khác. Doanh nghiệp cũng có trách nhiệm hợp tác toàn diện, cung cấp nguồn lực, tạo điều kiện cho ủy ban giám sát hoạt động.
Các doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng về môi trường, an toàn lao động, vệ sinh thực phẩm và các lĩnh vực khác gây ảnh hưởng đến sự an toàn của cộng đồng là các đối tượng phù hợp và “xứng đáng” bị giám sát đặc biệt.
Về kỹ thuật lập pháp, có thể thiết kế cơ chế giám sát đặc biệt như là một hình thức chế tài hành chính bên cạnh các hình thức chế tài khác mà các doanh nghiệp phải gánh chịu nếu gây ra các vi phạm nghiêm trọng liên quan đến tính mạng, sức khỏe của con người. Với tư cách là chế tài, quy trình áp dụng cũng cần được quy định minh bạch, rõ ràng để tránh sự tùy tiện từ phía Nhà nước, tạo sự cân bằng giữa nhu cầu giám sát và quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Tất nhiên, trên đây chỉ là những kiến nghị hết sức sơ lược về cơ chế giám sát đặc biệt. Muốn thực thi nó, cần phải có hành lang pháp lý rõ ràng và cụ thể hơn rất nhiều.
Nguồn: TBKTSG.
