
Giải cứu doanh nghiệp nhỏ và vừa (26/10)
26/10/2016 - 18 Lượt xem
Nhận diện thực trạng
Chật vật tìm chỗ đứng
DNNVV đang ngày càng khẳng định vai trò đối với nền kinh tế đất nước. Tính đến năm 2015, khối DN này đóng góp khoảng 45% GDP, chiếm 31% tổng số thu ngân sách, đóng góp gần 50% vào tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc gia hàng năm và tạo ra 51% tổng việc làm xã hội. Tuy nhiên, ngoài nhiều hạn chế như phát triển tự phát, nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết, trình độ quản lý và năng lực tài chính yếu, thị trường nhỏ hẹp và khả năng cạnh tranh không cao; DNNVV còn chịu ảnh hưởng cạnh tranh không lành mạnh từ các loại hình DN khác.
Theo Sách Trắng DNNVV Việt Nam năm 2014 do Bộ Kế hoạch - Đầu tư công bố, 97,6% DN đang hoạt động tại Việt Nam là DNNVV - những DN có ít hơn 100 lao động nếu hoạt động trong ngành thương mại và dịch vụ, hoặc ít hơn 300 lao động nếu hoạt động ở ngành khác. Điều tra Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2015 của Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cũng cho thấy con số tương tự: trong số 8.335 DN dân doanh được lấy mẫu tại 63 tỉnh - thành phố ở Việt Nam, có tới 97,3% là DNNVV.
Với tầm quan trọng của DNNVV trong đời sống xã hội, nước ta đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ sự phát triển của khu vực DN này. Nghị định 90/2001/NĐ-CP và sau đó là Nghị định 56/2009/NĐ-CP (thay thế Nghị định 90) về trợ giúp phát triển DNNVV đã quy định nhiều nhóm chính sách trợ giúp DNNVV. Đồng thời, nhiều chính sách trợ giúp khác cũng được đưa ra như tiếp cận vốn, mặt bằng sản xuất; đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; xúc tiến mở rộng thị trường; tham gia kế hoạch mua sắm, cung ứng dịch vụ công; thông tin và tư vấn; trợ giúp phát triển nguồn nhân lực… Tuy nhiên, trên thực tế hiệu quả của nhiều chương trình hỗ trợ chưa được phát huy như mong muốn.
DNNVV Việt Nam phần lớn đi lên từ các mô hình sản xuất gia đình, cá thể nhỏ lẻ, khi có cơ hội kinh doanh thì thành lập DN. Khảo sát PCI 2015 cho thấy kết quả tương tự, khi có tới 77% DN siêu nhỏ và 69% DN nhỏ đi lên từ hộ kinh doanh. Đối với nhóm DN quy mô vừa, số DN trước đó là từng hộ kinh doanh chiếm 55%. Quá trình hội nhập và cạnh tranh gay gắt trên thị trường hiện nay ngày càng đòi hỏi chủ DN có trình độ cao hơn để quản trị tốt hơn, cũng như nắm bắt kịp thời và phản ứng nhanh nhạy hơn trước các nhu cầu của thị trường. Mức độ phát triển kinh tế trong tương lai của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào việc các DN trong nước có tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu hay không. Thực tế, sau gần 10 năm nước ta gia nhập WTO, các DN dân doanh phần lớn vẫn quẩn quanh ở thị trường nội địa. Sự liên kết giữa DNNVV với DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam thông qua việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ vẫn rất hạn chế.
Theo kết quả điều tra PCI 2015, chỉ có 3% - 4% DN siêu nhỏ và nhỏ có khách hàng chính là DN FDI. Những hạn chế liên quan tới marketing hay thông tin kết nối cung cầu chưa đáp ứng những tiêu chuẩn về quản lý sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng của các DN FDI tại Việt Nam là nguyên nhân của hiện tượng trên, bị gạt ra ngoài sân chơi chung. Đến nay, nhiều DNNVV vẫn chưa nắm bắt được thông tin về các hiệp định thương mại (FTA) Việt Nam tham gia hoặc ký kết gần đây. Với việc Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) ra đời cuối năm 2015, một loạt FTA Việt Nam hoàn tất đàm phán và ký kết gần đây như EVFTA, TPP… các DN Việt Nam liệu có lấy được “miếng bánh” lớn hơn, vẫn còn là câu hỏi lớn. Trong khi đó, DNNVV có kết quả kinh doanh không sáng sủa. Tỷ lệ DNNVV thua lỗ trong năm 2015 tương đối cao: 32% DN siêu nhỏ, 17% DN nhỏ và 16% DN quy mô vừa; trong khi con số này ở DN quy mô lớn là 10%.
Hạn chế tiếp cận các nguồn lực
Các DN tham gia thị trường cần có nguồn thông tin xác thực, đầy đủ và kịp thời để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiếp cận thông tin dễ dàng sẽ đem lại nhiều lợi ích đối với các DN, như giảm chi phí giao dịch, đầu tư thông minh hơn và có trọng điểm hơn; giảm thiểu rủi ro và sai lầm; thuận lợi hơn trong việc tiến hành đổi mới, sáng tạo, có cơ hội tham gia cạnh tranh lành mạnh hơn trên thị trường, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, các DNNVV đang gặp nhiều hạn chế trong tiếp cận thông tin, cho rằng khó hoặc không thể tiếp cận một số loại tài liệu kế hoạch và văn bản pháp luật cơ bản có liên quan tới sản xuất kinh doanh của DN.
Trong bối cảnh như vậy, DNNVV khó có thể dự đoán được những thay đổi trong quy định pháp luật cũng như việc thực thi chúng trên thực tế. Khảo sát năm 2015 cho thấy, chỉ có 11% DN siêu nhỏ, 12% DN nhỏ và 16% DN quy mô vừa cho biết họ có thể dự đoán được những thay đổi trong các quy định pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, thấp hơn đáng kể các DN quy mô lớn (22%). Đáng lo ngại hơn, chỉ 7% DN nhỏ, siêu nhỏ và 8% DN quy mô vừa cho biết, họ có thể dự đoán được việc thực thi của các tỉnh - thành phố đối với quy định pháp luật của Nhà nước. Tỷ lệ DN lớn có dự đoán được việc thực thi này cao hơn các DNNVV, nhưng chỉ đạt 14%.
Khảo sát PCI 2015 cũng cho thấy, tỷ lệ DNNVV có khoản vay từ ngân hàng thấp hơn đáng kể so với DN quy mô lớn. Dữ liệu từ điều tra PCI cho thấy trong giai đoạn 2010-2015, khả năng tiếp cận vốn của DNNVV không có nhiều cải thiện. Tỷ lệ DN có thể tiếp cận nguồn vay ngân hàng chỉ tăng nhẹ 1% - 2% mỗi năm và so với tỷ lệ hiện tại lại thấp hơn hẳn giai đoạn 2010-2011, khi chỉ có 48% DN siêu nhỏ và 66% DN nhỏ có khoản vay từ ngân hàng. Đáng lưu ý, DN sẽ không thể vay vốn nếu không có tài sản thế chấp. Trong nhiều năm qua, với mặc định “không thể vay vốn nếu không có tài sản thế chấp”, điều này có nghĩa ý tưởng, kế hoạch kinh doanh của DN dù tốt, khả thi cũng không thể đảm bảo cho họ tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thậm chí, ngay cả khi có tài sản thế chấp, thời hạn vay của DNNVV cũng chỉ trong vòng 1 năm, mức lãi suất cao tương đương các nhóm DN khác. Với cách thức tiếp cận nguồn vốn như vậy, rất khó để DN thực hiện các kế hoạch, chiến lược kinh doanh dài hạn, bài bản và có năng lực mở rộng sản xuất kinh doanh.
Nhiều tỉnh - thành phố có chủ trương di dời các cơ sở sản xuất, chế biến ra khỏi các khu đô thị nhằm tránh ô nhiễm, đảm bảo an toàn cháy nổ, và nhiều DNNNVV cũng nằm trong diện phải di dời. Tuy nhiên, hầu hết DNNVV đã và đang phải tự bơi, chật vật kiếm nơi di dời khi họ không thể vào được các khu, cụm công nghiệp bởi giá thuê đất quá cao và những khó khăn khác như khó tìm nguồn nhân công, hạ tầng chưa bảo đảm, vận chuyển hàng hóa xa hơn, chi phí nhiều hơn... Nhiều địa phương đã dành nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ các khu, cụm công nghiệp này từ tiền ngân sách, tuy nhiên hầu hết chỉ dành phục vụ cho DN FDI hoặc DN trong nước quy mô lớn
Cần được tiếp sức
Gánh nặng kiểm tra, chi phí không chính thức
Việc thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước dường như vẫn là gánh nặng đối với nhiều DN dân doanh Việt Nam. Theo kết quả điều tra PCI 2015, có tới 74% DN từng đón tiếp các đoàn thanh, kiểm tra về tất cả các lĩnh vực trong năm vừa qua. Có hiện tượng rất đáng lo ngại: Các DN quy mô càng lớn, gánh nặng về thanh, kiểm tra càng cao. Chi phí thực hiện thủ tục hành chính tăng, rủi ro tăng lên khi quy mô hoạt động của DN tăng, có thể là một nguyên nhân khiến các DNNVV Việt Nam ngại lớn.
Sản xuất bao bì tại Công ty cổ phần Văn hóa Tân Bình. Ảnh: Cao Thăng
Thông thường các DNNVV phải tiếp đón 1-2 cuộc thanh, kiểm tra (trung vị) trong năm. Với các DN quy mô lớn, con số này khoảng 3 cuộc. Tính toán chung, có 18% DN siêu nhỏ, 24% DN nhỏ và 43% DN quy mô vừa đón tiếp ít nhất 3 đoàn thanh, kiểm tra trong năm, trong khi con số này là 50% đối với DN quy mô lớn. Việc thanh, kiểm tra dường như chưa có sự phối hợp tốt giữa các cấp, ngành. Điều này thể hiện qua tỷ lệ DN phản ánh về tình trạng trùng lặp nội dung thanh, kiểm tra giữa các đoàn thanh, kiểm tra. Kết quả khảo sát cho thấy, 25% DN siêu nhỏ, DN nhỏ và 30% DN vừa cho biết nội dung thanh, kiểm tra của các đoàn bị trùng lặp. Với các DN quy mô lớn, con số này lên tới 32%.
Gánh nặng thời gian trong các cuộc thanh, kiểm tra thuế cũng gia tăng theo quy mô của DN. Với các DN siêu nhỏ, trung bình mỗi lần thanh, kiểm tra thuế mất khoảng 3 giờ; đối với các DN nhỏ và DN quy mô vừa, con số này lần lượt là 7 và 8 giờ. Tuy nhiên, với các DN quy mô lớn, thông thường mỗi cuộc thanh, kiểm tra thuế thường làm mất khoảng 40 giờ của DN. Điều tra PCI 2015 cũng cho thấy, gánh nặng thực hiện thủ tục hành chính gia tăng theo quy mô của DN. Theo đó, các thủ tục hành chính về bảo hiểm xã hội, đất đai, hải quan, an toàn phòng chống cháy nổ, lao động, bảo vệ môi trường và thanh toán qua kho bạc là những lĩnh vực mà tỷ lệ DN thấy còn nhiều phiền hà gia tăng theo quy mô của DN. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần xác định lĩnh vực ưu tiên cải cách để tạo thuận lợi cho nhóm đối tượng này.
Việc tuân thủ thanh, kiểm tra liên miên cũng làm tăng chi phí không chính thức, là gánh nặng các DNNVV phải đối mặt. Có 62% DN siêu nhỏ, 68% DN nhỏ qua khảo sát cho thấy, phải chi trả chi phí không chính thức là thường xuyên. Với các DN quy mô vừa và lớn, con số này lần lượt là 70% và 69%. Quy mô của khoản chi phí không chính thức so với doanh thu của các DNNVV cũng tương đối lớn. Khoảng 11% DN siêu nhỏ, 13% DN nhỏ và 10% DN quy mô vừa cho biết, chi phí không chính thức chiếm trên 10% doanh thu của DN. Với các DN lớn, con số này là 7%. Bên cạnh đó, một tỷ lệ tương đối lớn DN nhỏ, siêu nhỏ (khoảng 65%) và DN vừa (62%) cho biết có “tình trạng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục hành chính cho DN”. Con số này ở các DN quy mô lớn là 60%.
Cần chính sách hỗ trợ thiết thực
|
|
Trong nhiều năm qua, Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách và giải pháp nhằm trợ giúp các DNNVV vượt qua khó khăn, phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, chưa có nhiều DNNVV thụ hưởng được các chính sách này. Kết quả khảo sát PCI 2015 cho thấy, tỷ lệ các DNNVV cho biết từng sử dụng các dịch vụ hỗ trợ DN trong năm vừa qua thông thường ở mức 20% - 30%. Tỷ lệ DN siêu nhỏ có sử dụng các dịch vụ hỗ trợ DN thường thấp nhất, kế đến là DN quy nhỏ và DN quy mô vừa. Bên cạnh đó, điều tra này đã phác họa tình hình hoạt động của DNNVV Việt Nam, phần nào lý giải tại sao DNNVV thời gian qua chưa có sự phát triển mạnh mẽ vì có quá nhiều vướng mắc, khó khăn trong tiếp cận nguồn lực trong quá trình hoạt động, gánh nặng về chi phí không chính thức, chất lượng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh thấp... khiến loại hình DN này không phát triển được
Để khuyến khích phát triển DNNVV, các chính sách hỗ trợ cần giúp DN tiếp cận thuận lợi với các nguồn lực và cơ hội, như tiếp cận thông tin, tiếp cận vốn và đất đai. Cần nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ DN, trong đó phải xác định đối tượng thụ hưởng chính là DNNVV. Các cơ quan Nhà nước cần có kế hoạch rút khỏi việc cung cấp trực tiếp các dịch vụ hỗ trợ DN và chuyển giao công tác này cho các hiệp hội DN và khu vực tư nhân thực hiện. Cần tiếp tục rà soát, cắt giảm các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, dễ hiểu và dễ tiếp cận với DN, nhất là với DNNVV. Trong đó, cần tập trung vào một số lĩnh vực các DNNVV hiện đang gặp nhiều phiền hà như bảo hiểm xã hội, đất đai, thuế, hải quan, an toàn phòng chống cháy nổ, lao động, thanh toán qua kho bạc. Thí dụ, hiện nay nhu cầu thuê mặt bằng tại các khu, cụm công nghiệp của các DNNVV đang rất lớn, Nhà nước cần có chính sách đồng bộ hơn cả về giá cho thuê, cũng như quy hoạch, lao động và hạ tầng nhằm tạo thuận lợi hơn cho các DNNVV trong việc tiếp cận đất đai tại các khu, cụm công nghiệp.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cần thực hiện đúng chức năng và giúp DNNVV tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm, bằng cách thiết kế kênh cung cấp thông tin thường xuyên về thị trường, đặc biệt là những thông tin có tính dự báo, định hướng chính sách của Nhà nước (đây là khâu yếu của DNNVV hiện nay). Nâng cao chất lượng các chương trình xúc tiến thương mại thông qua các cơ quan ngoại giao, tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài; phát triển hệ thống kênh bán buôn và bán lẻ trên diện rộng, để hàng hóa đến được các địa phương trong nước và các quốc gia trong khu vực. Đặc biệt, tạo sự đột phá trong việc cải thiện môi trường kinh doanh để DNNVV phát triển. Một việc quan trọng nữa là cần giảm bớt gánh nặng về thanh, kiểm tra cho các DN, tránh tình trạng thanh tra trùng lặp, chồng chéo. Cần tăng cường tham vấn cộng đồng DN trong xây dựng pháp luật, nhằm nắm bắt kịp thời những mong muốn và nhu cầu thực sự của các DNNVV - đối tượng thực hiện và thụ hưởng chính của những chính sách, pháp luật này.
Trong bối cảnh hội nhập, các hỗ trợ của Chính phủ khó thực hiện trực tiếp cho DN, nhưng biện pháp hỗ trợ gián tiếp thông qua hiệp hội lại phù hợp với các quy định của WTO. Vì thế, cần nhấn mạnh vai trò của các hiệp hội, để hiệp hội không chỉ là đại diện tiếng nói của DN, giúp DN trong lĩnh vực kinh doanh mà còn hỗ trợ DN về quan hệ lao động, tư vấn pháp lý, đào tạo và thực hiện trách nhiệm xã hội của DN. Một số hội, hiệp hội nghề nghiệp về cơ bản đã xây dựng được mô hình, tổ chức, đại diện được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng và là chỗ dựa quan trọng cho cộng đồng DNNVV. Đây là việc cần quan tâm, đẩy mạnh hoạt động thực chất của các hiệp hội đã tiếp sức hữu hiệu cho loại hình DNNVV.
Nguồn: SGGP
