
Tin mới
KIỂM SOÁT NỢ CÔNG KHÔNG CHỈ BẰNG LUẬT (03/4)
03/04/2017 - 22 Lượt xem

Đến cuối năm 2015, tỷ lệ nợ công của Việt Nam ở mức 62,2%/GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ là gần 15% tổng thu ngân sách Nhà nước.
Theo đồng hồ nợ công toàn cầu The Global Debt Clock trên trang Economist.com, tại thời điểm 11h20 ngày 1/1/2017, tổng nợ công của Việt Nam 94,854 tỷ USD; tương đương nợ chiếm 45,6% GDP; nợ theo bình quân 1.039 USD/người; mức gia tăng nợ 9,3%/năm. Việt Nam đã có kế hoạch mục tiêu giảm bội chi ngân sách xuống 3,5% GDP vào năm 2020. Điều quan trọng lúc này là phải có được các biện pháp chính sách cụ thể để đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu điều chỉnh theo dự kiến.
Kiểm soát chặt các khoản chi thường xuyên
Để có thể kiểm soát nợ công trong khi vẫn thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP đầy tham vọng 6,5%-7% trong giai đoạn 2017-2020, Chính phủ cần tăng cường kỷ luật tài khóa, gia tăng công tác quản lý và kiểm soát đối với các khoản chi từ NSNN.
Thực tế, Chính phủ sẽ khó có thể tiếp tục gia tăng tỷ lệ huy động/GDP cho NSNN, do tỷ lệ này đang ở mức cao và đã gia tăng mạnh trong mấy năm vừa qua. Giải pháp chính giúp kiểm soát thâm hụt ngân sách và nợ công trong thời gian tới đó là kiểm soát chi.
Hiện tỷ trọng chi thường xuyên trong NSNN đang ở mức rất cao, chiếm đến 82% tổng chi trong năm 2015, tăng mạnh so với tỷ lệ 69% trong năm 2010. Điều này phản ánh thực tế là công tác kiểm soát chi thường xuyên còn lỏng lẻo, khiến số liệu quyết toán ngân sách thường cao hơn nhiều so với số liệu dự toán. Nếu không kiểm soát tốt nợ công, VN khó đạt mục tiêu tăng trưởng bền vững. Bên cạnh đó, nhiều khoản chi còn mang tính cấp phát, không có nghĩa vụ hoàn trả, hay chi phí sử dụng vốn thấp đã khiến đối tượng hưởng thụ không có động lực để sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất, gây lãng phí ngân sách nhà nước. Việc tăng lãi suất cho các khoản vay từ NSNN sẽ là một giải pháp quan trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Ngoài ra, việc đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư nhân và các nhà ĐTNN trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cung cấp dịch vụ công có thể là một giải pháp cần đẩy mạnh hơn nữa khi nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách bị hạn chế từ năm 2017 do tỷ lệ nợ công đã tiến sát trần. Bên cạnh đó, Chính phủ nên đẩy mạnh vay nợ trực tiếp, thu hẹp các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh và các khoản vay của chính quyền địa phương. Việc này giúp công tác quản lý nợ công mang tính tập trung và hiệu quả hơn, tránh hiện tượng tự phát hoặc “lách rào” của các địa phương. Tái cơ cấu lại các khoản nợ và tạo lực cầu mới cho kênh trái phiếu để giảm chi phí lãi vay… Đó là những cách có thể kiểm soát nợ công tốt hơn trong lúc này…
Sửa luật để thống nhất đầu mối
Việc quản lý nợ công hiện có tới 3 cơ quan là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điều này khiến quản lý nợ công sẽ bị phân tán, thiếu gắn kết giữa huy đông vốn vay và thiếu chủ động giám sát trần nợ công.
Đối với nợ công chỉ thuần túy mang tính chất tài khóa nên nó quy định rất rõ đối tượng. Đến nay Luật hiện hành và dự thảo sửa đổi vẫn xác định như vậy theo thông lệ quốc tế. Còn với nợ của DNNN thuộc về lĩnh vực kinh doanh mặc dù nó liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm của CP nhưng điều đó có thể có luật riêng về dự luật các DNNN.
Trong giai đoạn tới, khi nguồn vốn ODA thu hẹp dần và tiến tới chấm dứt, thì việc tập trung quản lý các nguồn vốn vay vào một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nợ công là Bộ Tài chính là cần thiết. Để thực hiện được việc này, cần phải có sự điều chỉnh đồng bộ từ khuôn khổ pháp lý, đặc biệt là Luật Quản lý nợ công, bộ máy quản lý, cơ chế phối hợp đến phương thức huy động , cân đối, phân bổ và sử dụng các nguồn vốn.
Nguồn: DDDN
Mới đây, giải trình với UB Thường vụ Quốc hội về nợ công, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng khẳng định, quy định như phạm vi nợ công như hiện nay là phù hợp với thông lệ quốc tế và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Ông Dũng cũng cung cấp thông tin, khảo sát quy định áp dụng tại 40 quốc gia, hầu hết đều xây dựng cơ cấu nợ công tương tự, kể cả các nhóm nước phát triển như Nhật tới các nước đang phát triển trong khu vực ASEAN hay những nước có chỉ số tín nhiệm tương tự Việt Nam như Slovakia. Chỉ có 4 nước trong nhóm khảo sát quy định nợ của DNNN cũng được tính vào nợ công nhưng chỉ áp dụng đối với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực công ích, thực hiện nhiệm vụ của nhà nước giao, như Thái Lan.
Đối với vay nợ của DNNN, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh là theo cơ chế tự vay tự trả, DN là bên vay có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo quy định của pháp luật. “DNNN về bản chất là Cty TNHH MTV, chịu trách nhiệm hữu hạn trên tổng số vốn điều lệ được cấp, trường hợp DN không trả được nợ có thể thực hiện phá sản theo quy định của pháp luật. Nếu đưa nợ tự vay tự trả của DNNN vào nợ công có nghĩa là chuyển nợ từ DN sang nợ của Chính phủ. Điều này không phù hợp. Vì vậy, Bộ Tài chính không đưa nợ DN nhà nước vào nợ công” – tư lệnh ngành Tài chính phân tích.
Chủ nhiệm UB Quốc phòng – An ninh Võ Trọng Việt cho rằng, nếu mở rộng phạm vi nợ công thì tính nguy hiểm rất cao: “Mở ra thì tạo suy nghĩ có Chính phủ lo cho rồi thì làm bừa làm ẩu, không khéo làm loạn nền kinh tế. Cái gì cũng có hai mặt, xét trên khía cạnh yêu cầu tính ổn định kinh tế, tính khả thi trong quy định thì khoanh rõ phạm vi với 3 đối tượng như dự thảo là phù hợp”.
“Quy định dự án 1.000 tỷ đồng phải trình Quốc hội nhưng cơ quan trình lại lách, chia ra làm 2 gói 500 tỷ để không phải đưa ra Quốc hội. Vậy luật có lỗ hổng không? Nếu không có lỗ hổng thì sao luật nào, chính sách nào cũng lách được hết vậy?” – Chủ nhiệm UB Quốc phòng – An ninh cho rằng, quan điểm thảo luận là mỗi cơ quan cần phải thấy trách nhiệm của mình để thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.
