Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Dệt may Việt Nam: thách thức nâng cao giá trị gia tăng (07/6)

07/06/2017 - 38 Lượt xem

 Tuy đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong thời gian qua, đưa kim ngạch xuất khẩu năm 2016 đạt trên 28 tỉ đô la Mỹ nhưng dệt may Việt Nam hiện vẫn ở vị trí dưới đáy của “đường cong nụ cười” trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu với giá trị gia tăng thấp. Ngoài các nước như Sri Lanka, Bangladesh, Campuchia... đang cùng ở vùng trũng như Việt Nam, các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu khác (Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Pakistan...) đều có vị trí cao hơn trong chuỗi cung ứng.

Số liệu thống kê cho thấy, năm 2011 tỷ lệ giá trị tăng thêm của ngành dệt may Việt Nam đạt 46,2%, đến năm 2016 đạt 51,48%, tăng 5,28 điểm phần trăm.

So với một số ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam, giá trị tăng thêm của dệt may cao hơn ngành da giày (40-45%), và cao hơn hẳn so với các ngành điện thoại, máy tính và sản phẩm điện tử (chưa quá 10%). Giá trị tăng thêm của dệt may, da giày cao hơn một số ngành khác chủ yếu do hàm lượng lao động trong sản phẩm khá lớn.

Điều này không đồng nghĩa với tỷ lệ nội địa hóa cao trong kết cấu sản phẩm, do ngành đang phụ thuộc quá nhiều vào nguyên, phụ liệu nhập khẩu. Sản lượng bông trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 1% nhu cầu; xơ, sợi khoảng 30%; vải 20%; công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển. Công đoạn may phát triển mạnh nhưng với phương thức gia công xuất khẩu (CMT) là chủ yếu (65%), phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm do khách hàng chỉ định hoặc tự khai thác (FOB I và FOB II) khoảng 25%; tự thiết kế, sản xuất và từ thương hiệu, tự thiết kế đến phân phối (ODM và OBM) chỉ 10%.                          

Thách thức trong việc nâng cao giá trị gia tăng

Thứ nhất là việc trồng bông ở nước ta phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên (bông nước trời), bông có tưới chi phí cao, giá bông lên xuống thất thường theo giá bông thế giới, dẫn đến cây bông không cạnh tranh được với các cây trồng khác(1).

Thứ hai, khâu dệt, nhuộm có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư. Nếu như đầu tư vào công đoạn may cho một vị trí làm việc chỉ cần khoảng 3.000 đô la Mỹ, công đoạn sợi là 8.000-10.000 đô la Mỹ thì đầu tư vào khâu dệt, nhuộm khoảng 20.000 đô la Mỹ. Như vậy, với một nhà máy may trung bình cần 5 triệu đô la Mỹ, nhà máy sợi cần khoảng 20 triệu đô la Mỹ và nhà máy dệt nhuộm cần tới 40 triệu đô la Mỹ.

Hiện nay, lãi suất ngân hàng tuy đã giảm đáng kể so với thời gian trước đây (đã có lúc trên 20%/năm), song vẫn ở mức cao, từ 8-10%/năm. Bên cạnh đó, vấn đề xử lý môi trường cũng rất tốn kém. Nếu không có tiềm lực như các nhà đầu tư nước ngoài hoặc ít nhất cũng như tập đoàn Vinatex và một số công ty thành viên lớn, thì khó có thể đầu tư khi chỉ đi vay.

Thứ ba, thách thức lớn nhất là thiếu hụt nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các công đoạn dệt, nhuộm. Hiện nay, chất lượng đào tạo tại nhiều trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề chưa đáp ứng yêu cầu. Sinh viên ra trường kiến thức chuyên môn và ngoại ngữ hạn chế, dẫn đến tình trạng đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật vừa yếu, vừa thiếu. Các doanh nghiệp tìm cách thu hút lao động của nhau dẫn đến tỷ lệ biến động lao động lớn.

Thứ tư, Nhà nước có một số chính sách ưu đãi cho ngành, nhưng một thời gian dài mang tính dàn trải, không tập trung vào những công đoạn thực sự khó khăn, phức tạp (như dệt, nhuộm hoàn tất, công nghiệp phụ trợ...), dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp lựa chọn dễ làm khó bỏ, phát triển không cân đối, đầu tư chủ yếu cho công đoạn may, gia công xuất khẩu để tránh rủi ro.

Thứ năm, giữa các doanh nghiệp thiếu sự kết nối để trao đổi thông tin, sử dụng sản phẩm của nhau, đặc biệt sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn rất hạn chế. Tỷ lệ các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI hầu như không đáng kể. Hiện tại nhiều mặt hàng (sợi, vải, NPL...) các doanh nghiệp trong nước sản xuất được - chiếm khoảng 20-25% giá trị xuất khẩu - cũng nhập là chủ yếu. Ví dụ, mặt hàng sợi, doanh nghiệp trong nước xuất khẩu khoảng trên 1 triệu tấn/năm (và cũng nhập với số lượng gần 900.000 tấn/năm); vải hàng năm xuất khẩu trên một tỉ đô la Mỹ; ngoài ra còn xuất NPL (khóa, cúc, mex, chỉ, bao bì...)...

Doanh nghiệp cần làm gì?

Một là, các doanh nghiệp trong ngành cần thay đổi nhận thức về tăng trưởng. Đã đến lúc phải tập trung nâng cao giá trị gia tăng, đáp ứng quy tắc xuất xứ của một số hiệp định thương mại tự do (FTA) để tăng hiệu quả thay vì tăng kim ngạch xuất khẩu. 

Hai là, tập trung sản xuất các loại nguyên, phụ liệu đảm bảo chất lượng, giá cả hợp lý để cung cấp cho may xuất khẩu. Các doanh nghiệp mạnh trong nước cần phối hợp triển khai một số dự án lớn tại các trung tâm dệt may. Hình thành chuỗi liên kết dệt - may - phụ liệu tại mỗi vùng, miền.

Ba là, đẩy mạnh đầu tư theo hình thức liên doanh với nước ngoài (doanh nghiệp FDI 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam hiện chiếm trên 80%), đi đôi với chú trọng chuyển giao công nghệ, lồng ghép chương trình đào tạo cán bộ quản lý kỹ thuật, công nghệ khi ký hợp đồng mua thiết bị. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI để mua bán sản phẩm, trao đổi kinh nghiệm. Tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề tìm giải pháp chuyển dịch từ gia công xuất khẩu sang FOB và ODM. Tìm kiếm khách hàng trực tiếp, giảm xuất khẩu qua khâu trung gian.

Bốn là, ứng dụng công nghệ hiện đại in 3D trong thiết kế thời trang đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đơn lẻ của khách hàng, lựa chọn các công đoạn phù hợp để tự động hóa, số hóa, chuẩn bị các điều kiện thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Năm là, các doanh nghiệp trong ngành tổ chức và mở rộng mạng lưới bán lẻ trong nước, tăng cường tiếp thị, quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và các thương hiệu đã được khẳng định đến người tiêu dùng. Phát triển thương hiệu mới để sản xuất theo phương thức ODM, OBM phục vụ thị trường nội địa, từng bước vươn ra thị trường xuất khẩu với sản phẩm mang thương hiệu của mình.

Sáu là, các cơ sở đào tạo chuyên ngành dệt may bám sát định hướng phát triển để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của ngành. Chuyển hướng đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp, xây dựng giáo trình hợp lý giữa lý thuyết và thực hành. Tăng cường vai trò của hiệp hội, phối hợp mở thêm các lớp đào tạo về dệt, nhuộm, thiết kế, tiếp thị... trong chương trình hợp tác giữa Việt Nam với Nhật Bản, Hàn Quốc... 

Vai trò của Nhà nước

Nhà nước nghiên cứu ban hành chính sách thuế tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi sử dụng NPL trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện tại các doanh nghiệp khi mua NPL nội địa phải nộp ngay thuế giá trị gia tăng 10%, trong khi theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có hiệu lực từ ngày 1-9-2016 thì NPL nhập khẩu để gia công xuất khẩu được miễn thuế thay vì nộp trước và hoàn thuế sau như trước đây.

Sớm quy hoạch và cấp phép các khu công nghiệp dệt may lớn tại ba miền Bắc, Trung, Nam để tránh chồng chéo. Thu hút, ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực dệt, nhuộm hoàn tất, công nghiệp hỗ trợ..., không ưu đãi cho các dự án sản xuất hàng may mặc và sợi do Việt Nam đã có đủ điều kiện để tự đầu tư. Hỗ trợ đầu tư xử lý nước thải tại các khu công nghiệp này.

Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt cho khâu thượng nguồn. Thu hút sinh viên vào học các ngành này bằng cách giảm học phí hoặc cấp học bổng. Đối với các cơ sở đào tạo dệt may, đề nghị hỗ trợ công cụ, thiết bị dạy học, thực hành, mời giảng viên là chuyên gia từ các nước sản xuất và cung cấp thiết bị, công nghệ hiện đại.

Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến cấp phép đầu tư, thuế, hải quan, nhất là các thủ tục kiểm tra chuyên ngành theo hướng quản lý rủi ro, phân loại doanh nghiệp ưu tiên, chuyển mạnh sang hậu kiểm... đúng như tinh thần các Nghị quyết 19/NQ-CP và Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16-5-2016 của Chính phủ.

Nhà nước sớm thông qua Luật về Hội và cho phép các doanh nghiệp FDI được phép tham gia là hội viên chính thức của các hiệp hội, giúp tăng cường sự liên kết, hợp tác giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước.

Nguồn: TBKTSG