Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Chuyên gia đề xuất Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay

10/08/2023 - 389 Lượt xem

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Để tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đề xuất Chính phủ, Bộ, ngành, NHNN và doanh nghiệp cần ưu tiên thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp tác động cả tổng cung và tổng cầu.

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo nghiên cứu về Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay.

1. Khó khăn chính của doanh nghiệp và nguyên nhân

Như Nhóm tác giả đã tổng hợp, doanh nghiệp hiện nay đang gặp phải bốn khó khăn, vướng mắc chính , bao gồm:

- Thứ nhất là vấn đề pháp lý, môi trường kinh doanh: dù đang được quan tâm cải thiện, tháo gỡ dần, khâu thực thi vẫn chậm và yếu, một phần là do quy định pháp luật chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng, nhưng chủ yếu là do nỗi lo sợ trách nhiệm, sợ sai, chưa vì cái chung trong khi năng lực, trình độ của công viên chức còn hạn chế và khâu phối hợp chưa tốt. Đây là thách thức, bất cập lớn nhất, cũng là nguyên nhân chính làm suy giảm niềm tin.

- Thứ hai là vấn đề tài chính , thể hiện qua ba khía cạnh: (i) Một là nghĩa vụ thuế và phí đáo hạn: điều này đã và đang được Quốc hội, Chính phủ nhận diện và hỗ trợ thông qua việc ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ như nêu dưới đây.

(ii) Hai là nghĩa vụ nợ phải trả cho đối tác, khách hàng, nợ đọng lẫn nhau: điều này, cùng với hạn chế về tiếp cận và hấp thụ vốn, vòng quay tiền chậm, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về dòng tiền, nên tiền gửi của các tổ chức kinh tế (TCKT) trong cung tiền tăng chậm lại kể từ quý 2/2022 và thậm chí giảm kể từ tháng 2/2023, nhưng đang giảm ít hơn gần đây (Hình 1). Từ đó dẫn tới tốc độ tăng cung tiền (so với cùng kỳ) đã liên tục giảm từ tháng 1/2022 đến tháng 3/2023, trước khi đang tăng nhẹ trở lại từ tháng 4/2023.

Chuyên gia đề xuất Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay - Ảnh 1.

(iii) Ba là tiếp cận vốn: đối với kênh tín dụng, theo NHNN, đến ngày 30/6/2023, dư nợ tín dụng tăng 4,73% so với đầu năm, tương đương với cùng kỳ năm 2020 và thấp hơn nhiều cùng kỳ của các năm còn lại trong giai đoạn 2018-2022. Trong đó, dư nợ đối với doanh nghiệp tăng 4,66% so với cuối năm 2022, chiếm 51% dư nợ nền kinh tế. Theo đó, tăng trưởng tín dụng thấp ở hầu hết các lĩnh vực (trừ xây dựng, Hình dưới đây ).

 

Chuyên gia đề xuất Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay - Ảnh 2.

Bốn nguyên nhân chính khiến tín dụng ngân hàng tăng thấp : (i) Bối cảnh chung rủi ro, thách thức hơn, nợ xấu gia tăng khiến các tổ chức tài chính trên thế giới và cả Việt Nam trở nên thận trọng hơn; (ii) khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của bên vay ở mức thấp hơn [do năng lực tài chính suy giảm, giá trị tài sản bảo đảm (nhất là BĐS) bị giảm; (iii) năng lực hấp thụ vốn, nhu cầu vay vốn của cả doanh nghiệp và hộ gia đình ở mức thấp (do thiếu đơn hàng, hoạt động SXKD bị thu hẹp, e ngại tình trạng trì trệ ở một bộ phận công viên chức)]; (iv) một số lĩnh vực lâu nay dựa nhiều vào vốn ngân hàng hay TPDN đang suy giảm như BĐS, công nghiệp, dịch vụ khác và tiêu dùng, dẫn đến nhu cầu tín dụng của những lĩnh vực này cũng giảm theo ( xem Hình trên ).

Bên cạnh đó, kênh huy động vốn từ thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vẫn bị thu hẹp (hết 7 tháng đầu năm, huy động từ thị trường cổ phiếu chỉ đạt khoảng 12.000 tỷ đồng, giảm gần 60%; từ thị trường TPDN ước đạt 61 nghìn tỷ đồng, giảm 78% so với cùng kỳ năm 2022).

- Thứ ba là khó khăn cả đầu vào lẫn đầu ra: chi phí đầu vào, bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí sản xuất, logistics, lãi vay đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, trong khi đầu ra bị thu hẹp, đơn hàng giảm mạnh, một số lĩnh vực chỉ mới có tín hiệu phục hồi đơn hàng từ đầu quý 3/2023.

- Thứ tư là vấn đề lao động . Thị trường lao động thay đổi nhiều sau dịch bệnh, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa theo kịp, vẫn xảy ra tình trạng mất cân đối cung - cầu (chỗ thiếu, chỗ thừa), việc làm, thu nhập bị giảm, chưa kể thái độ làm việc đôi khi còn cầm chừng…v.v.

Nguyên nhân gây nên khó khăn đối với doanh nghiệp gồm cả chủ quan và khách quan. Về nguyên nhân khách quan, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, lạm phát, lãi suất dần hạ nhiệt nhưng đang ở mức cao… khiến nhu cầu thương mại, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu giảm; trong khi đó, ở trong nước, với một nền kinh tế có độ mở lớn, sức chống chịu còn thấp cùng với những khó khăn, bất cập nội tại,… đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam (chưa kể nhiều doanh nghiệp đã yếu đi nhiều sau 3 năm chống chịu với dịch Covid-19).

Nguyên nhân chủ quan đến từ môi trường kinh doanh nội tại và bản thân doanh nghiệp. Nền tảng vĩ mô của chúng ta đang khá tốt, nhưng sức chịu đựng với các cú sốc bên ngoài còn yếu, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, phụ thuộc nhiều vào khối FDI (chiếm hơn 72% kim ngạch xuất khẩu, 58% kim ngạch nhập khẩu năm 2022), công nghiệp phụ trợ yếu khiến DN phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu; lãi suất cho vay mặc dù đã giảm nhưng còn ở mức cao; thủ tục hành chính (gồm cả định giá đất và tiền thuê đất, phòng cháy chữa cháy...v.v.). Trong khi đó, bản thân doanh nghiệp bộc lộ nhiều hạn chế như: (i) năng lực quản trị còn yếu, năng lực dự báo tình hình hạn chế; (ii) năng lực cạnh tranh, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ở mức thấp nên dễ bị thay thế hoặc cắt bỏ trong bối cảnh khó khăn; (iii) nhiều DN phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu (một phần là do công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển) trong khi chưa đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; (iv) nhiều DN sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao, đầu tư dàn trải; (iv) thiếu chính sách liên kết giữa các DN trong nước và DN FDI, dẫn đến còn tình trạng vừa thừa - vừa thiếu; (v) chưa tranh thủ, quyết liệt đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và xanh hóa trong thời gian qua.

2. Chính sách của Quốc Hội và Chính phủ, Bộ, ngành và NHNN

Trong bối cảnh đó, Quốc Hội, Chính phủ đã có nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, khó khăn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH, dự toán NSNN và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023; Quốc Hội và Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực y tế, các thị trường đất đai, bất động sản, vốn, du lịch, với chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm và chính sách tiền tệ linh hoạt, nới lỏng có kiểm soát, cùng với việc thúc đẩy đầu tư công. Gần đây nhất là Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 15/7/2023 về các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, siết chặt kỷ luật, kỷ cương...v.v.

- Đối với chính sách tài khóa, các chính sách miễn, giảm, giãn tiền thuế, phí và tiền thuê đất năm 2023 với tổng quy mô gần 200 nghìn tỷ đồng, tương ứng với số giảm thu ngân sách thực tế là hơn 82 nghìn tỷ đồng ; chính sách thúc đẩy đầu tư công với tổng quy mô (cả chuyển tiếp từ năm trước) lên đến gần 800 nghìn tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2022, tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng.

 

Nguồn: cafef.vn